Dự án VP6 Linh Đàm Chung cư VP6 Linh Đàm

Thứ 2, 23/12/2024

Đang duyệt: Trang chủ Nghiên cứu trao đổi

Đổi mới nền giáo dục Việt Nam: làm gì và làm thế nào? Bài 2: Lỗi hệ thống phải sửa hệ thống 

Đổi mới từ đâu và như thế nào, có rất nhiều câu trả lời khác nhau. Có ý kiến cho rằng phải bắt đầu từ triết lý, tư duy làm giáo dục. Có người lại quan niệm, phải từ chương trình và sách giáo khoa, người khác khẳng định phải từ giáo viên, từ đổi mới thi cử. Còn GS-TSKH Nguyễn Minh Đường thì chắc như đinh đóng cột rằng: Lỗi hệ thống phải sửa hệ thống. Theo ông, đó chính là hệ thống giáo dục quốc dân.
 


 
Sự lựa chọn đúng sẽ mở đường cho một giai đoạn giáo dục khai phóng và phát triển. Ảnh: Linh Tâm

Cứng nhắc, khép kín và kém linh hoạt

Gần đây, trên các diễn đàn, có một cuộc tranh luận về vấn đề giáo dục phổ thông (GDPT) nên là 10, 11 hay 12 năm. Mỗi quan điểm đều có những lý lẽ riêng hợp lý. Trước đó, khi Quốc hội bàn về dự thảo Luật Giáo dục đại học, người ta cũng nói nhiều về phân tầng đại học và hệ thống trình độ (bằng cấp) quốc gia. Đây cũng chỉ là một vấn đề của hệ thống giáo dục quốc dân (HTGDQD), mặc dù phải bắt đầu từ đấy để đi những bước tiếp theo trên con đường đổi mới. Ví như, phải quyết định được GDPT gồm bao nhiêu năm thì mới xây dựng được chương trình và viết sách giáo khoa.

Nói về HTGDQD hiện nay, GS-TSKH Nguyễn Minh Đường nêu ra một số đặc điểm nổi bật. Một là, nó gồm 3 hệ thống con là GDPT, GD nghề nghiệp, GD đại học nhưng do nhiều đầu mối quản lý nên hoạt động riêng rẽ, thiếu sự phối hợp, dẫn đến tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về cơ cấu trình độ cũng như vùng miền. Hai là, hiện có hai loại trường CĐ, hai loại trường trung cấp nhưng mục tiêu đào tạo gần như nhau gây nên sự trùng lặp và làm mất tính chỉnh thể của hệ thống. Ba là, chưa quy định cấp học phổ cập bắt buộc, là trình độ dân trí tối thiểu của mỗi quốc gia. Bốn là, chưa có hệ thống trình độ quốc gia và bằng cấp của nước ta hiện không tương thích với hệ thống trình độ giáo dục quốc tế nên khó mà hội nhập. Năm là chưa phân luồng hợp lý sau THCS và THPT.

Hiện đang tồn tại song song hai cơ quan quản lý nhà nước là Bộ GD-ĐT và Bộ LĐ,TB&XH, khiến cho công tác quản lý vừa bị chia cắt, vừa phân tán, làm giảm hiệu lực quản lý và khó có thể thực hiện các chính sách quốc gia thống nhất. Đơn cử, trên cùng một địa phương có tới  2 quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo trình độ trung cấp và cao đẳng; có 2 bộ chương trình khung được tổ chức biên soạn với 2 phương pháp tiếp cận và cấu trúc khác nhau nên khó mà đào tạo liên thông; có 2 bộ tiêu chí kiểm định chất lượng nên các trường đào tạo đa hệ không biết kiểm định theo 10 tiêu chuẩn 53 tiêu chí của Bộ GD-ĐT hay 9 tiêu chí với 500 điểm của Bộ LĐ,TB&XH. Quản lý HTGDQD theo kiểu "một khung cờ tướng, một khung cờ vua" như hiện nay đã dẫn đến 6 không: không phân luồng được học sinh, không đào tạo được liên thông, không ban hành được danh mục ngành nghề đào tạo các trình độ một cách có hệ thống, không chuẩn hóa được hệ thống đào tạo, không có được mạng lưới cơ sở đào tạo hợp lý, không quản lý được chất lượng theo phương thức kiểm định chất lượng - GS-TSKH Nguyễn Minh Đường tổng kết.

Đưa ra nhiều số liệu, PGS-TS Đặng Danh Ánh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu đào tạo và tư vấn KHCN cũng nhằm chứng minh HTGDQD là vấn đề căn bản của GD hiện nay. Theo ông, hệ thống này đang mất cân đối, thể hiện ở cơ cấu phân luồng học sinh sau THCS vào THPT rất cao gần 80%, tỷ lệ học sinh sau THCS và THPT vào  TCCN rất thấp, năm sau số lượng học sinh theo học nghề và TCCN đều ít hơn năm trước, trong khi  tỷ lệ học sinh sau THPT vào CĐ, ĐH rất cao, những năm gần đây lên tới xấp xỉ 50%. Sự mất cân đối còn thể hiện ở cơ cấu tuyển sinh, CĐ và ĐH tăng hơn 10 lần nhưng dạy nghề chỉ tăng khoảng 4 lần; cơ cấu đào tạo: CĐ, ĐH tăng 10 lần, DN chỉ tăng 3 lần; cơ cấu trường: số trường CĐ, ĐH tăng 4 lần trong khi trường nghề giảm. Cơ cấu đào tạo bất hợp lý ấy tất yếu dẫn đến cơ cấu nguồn nhân lực mất cân đối nghiêm trọng.

 
Giờ tin học của học sinh Trường Tiểu học Quang Trung (Hà Nội). Ảnh: Huyền Linh

Mềm dẻo, hiện đại, liên thông, chuẩn hóa

Đó là mục tiêu đặt ra cho việc hoàn thiện cơ cấu HTGDQD và đổi mới bộ máy quản lý hệ thống này. Tuy nhiên, HTGDQD trong tương lai như thế nào hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.

Theo mô hình của GS-TSKH Nguyễn Minh Đường thì sau GD mầm non, GDPT vẫn là 12 năm, trong đó bậc tiểu học và THCS trở thành trung học cơ bản và là phổ cập bắt buộc. THPT sẽ được phân hóa với phần cứng và phần mềm tự chọn, học sinh tốt nghiệp được cấp bằng THPT và có thể học tiếp lên ĐH. THPT nghề vừa dạy văn hóa, vừa dạy nghề, tốt nghiệp được cấp bằng nghề hoặc học tiếp lên ĐH. GD nghề nghiệp gồm 3 trình độ, sơ cấp, trung cấp, cao đẳng được liên thông với nhau. Bậc ĐH được chia thành 2 loại: trường ĐH định hướng nghiên cứu, sinh viên tốt nghiệp được cấp bằng cử nhân và trường ĐH định hướng kỹ thuật ứng dụng, sinh viên tốt nghiệp được cấp bằng kỹ sư, bác sĩ và cả hai đại học đều có thể học lên thạc sĩ, tiến sĩ. Cũng cho rằng GDPT cần phải có 12 năm mới đủ thời gian học tập, nhưng GS-TS Nguyễn Lân Dũng, Phó Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn khoa học - giáo dục (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) lại lấy kinh nghiệm của Nepan, chia thành 10 năm phổ thông và 2 năm phân ban sâu thành 4 ban và chỉ học 4 môn. GS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên đại biểu Quốc hội, GS Hồ Ngọc Đại, Giám đốc Trung tâm Công nghệ Giáo dục (Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam), PGS Văn Như Cương, Hiệu trưởng Trường Lương Thế Vinh ủng hộ phương án 11 năm, trong đó 9 năm bắt buộc và 2 năm chuyên ban sâu. GS Nguyễn Lộc, Viện phó Viện Khoa học giáo dục lại băn khoăn, hiện GDPT là 12 năm đã quá tải, nay rút ngắn thì còn quá tải thế nào, và ông dẫn ra số liệu của hơn 200 nước trên thế giới, có đến 120 nước ( chiếm 60%) dùng hệ 12 năm. Rõ ràng, HTGDQD là vấn đề rất căn bản nhưng chưa có được sự thống nhất nên GS Nguyễn Lân Dũng khẳng định, "chuyện này cần thảo luận và phân tích kỹ lưỡng".

Không chỉ có HTGDQD mà nhiều vấn đề của GD hiện nay cần được thảo luận và phân tích kỹ lưỡng. Nói như GS Hoàng Tụy, GD hiện đang đứng giữa ngã ba đường và "đã đến lúc phải có sự lựa chọn hoặc tiếp tục con đường cũ, hoặc cương quyết thay đổi tư duy, thực hiện bước ngoặt cơ bản, mở đường cho một giai đoạn giáo dục khai phóng phát triển". Và để có được quyết định đúng đắn cho "điều kiện sống còn của dân tộc" này thì không chỉ trông chờ vào riêng ngành GD-ĐT.

teo hanoimoi.com.vn

Đánh giá của bạn về bài viết

Tổng số: 0 Trung bình: NaN
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC TRUNG ƯƠNG HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM NHIỆM KỲ III (2022 - 2027)HỘI NGHỊ, GIAO LƯU BAN LÃNH ĐẠO TW HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM VỚI CÁC ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC VÀ BAN VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP THÀNH HỘI NHÂN LỰC - NHÂN TÀI HÀ NỘI
VIETNET-ICTYVS VietnamViện Nghiên cứu phát triển Lãnh đạo chiến lược Viện Nghiên cứu chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranhViện Khoa học đào tạo phát triển nhân lựcTrung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữTrung tâm Giáo dục và phát triển