TW HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM __________________ Số /BC-TWH | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ______________ Hà Nội, ngày …. tháng …. năm 2011 |
BÁO CÁO TÌNH HÌNH NHÂN SỰ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
BAN CHẤP HÀNH TW HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NHÂN TÀI VIỆT NAM NHIỆM KỲ I (2005-2011)
VÀ DỰ KIẾN NHÂN SỰ NHIỆM KỲ II (2012-2017)
I. Tình hình nhân sự và hoạt động của Ban Chấp hành TW nhiệm kỳ I
1. Cơ cấu nhân sự Ban Chấp hành TW Hội nhiệm kỳ I
Đại hội lần thứ nhất thành lập Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài Việt Nam ngày 25/5/2005 đã bầu Ban Chấp hành TW Hội gồm 67 đồng chí.
- Giới tính: Nam: 58 đồng chí, tỷ lệ 87%
Nữ: 9 đồng chí, tỷ lệ 13%
- Tuổi đời: độ tuổi bình quân Ban Chấp hành TW Hội là 60 tuổi
Trong đó có: 5 Đ/c trên 70 tuổi, chiếm tỷ lệ 7%
34 Đ/c từ trên 60 tuổi đến 70 tuổi, chiếm tỷ lệ 51%
22 Đ/c từ trên 50 tuổi đến 60 tuổi, chiếm tỷ lệ 33%
4 Đ/c từ trên 40 tuổi đến 50 tuổi, chiếm tỷ lệ 6%
2 Đ/c dưới 40 tuổi
- Trình độ: PGS, TS trở lên: có 21 Đ/c, tỷ lệ 31%
- Đang làm việc tại các cơ quan Nhà nước có 17 đ/c, tỷ lệ 25%
Phân công Ban Chấp hành TW Hội: tại Hội nghị Ban Chấp hành TW Hội lần thứ nhất đã bầu Ban Thường vụ TW Hội gồm 16 đ/c. Đ/c Đoàn Duy Thành được bầu làm Chủ tịch BCH TW Hội, 5 Đ/c Phó Chủ tịch, 5 Đ/c trong Ban Kiểm tra và 5 Đ/c trong Ban Thư ký.
2. Những thay đổi trong Ban Chấp hành TW Hội
- Tại cuộc họp Ban Thường vụ TW Hội ngày 10/12/2007, bầu TS. Mai Văn Bảy làm quyền Chủ tịch Ban Chấp hành TW Hội thay Chủ tịch Đoàn Duy Thành xin từ chức vì lý do sức khỏe.
- Sau 5 năm hoạt động đến tháng 12/2010 có 13 đ/c t rong Ban Chấp hành TW Hội xin nghỉ vì lý do sức khỏe hoặc từ trần, tại kỳ họp thứ 4 Ban Chấp hành TW Hội ngày 19/12/2010 đã bầu bổ sung 19 đ/c vào Ban Chấp hành TW Hội đưa Tổng số ủy viên Ban Chấp hành TW Hội lên 73 đ/c. Ban Thường vụ TW Hội có 16 đ/c. Đ/c Vũ Ngọc Phương được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành TW Hội. Có 8 Phó Chủ tịch, bầu đ/c Lê Văn Hải làm trưởng Ban Kiểm tra kiêm công tác pháp chế của TW Hội.
- Cũng tại kỳ họp thứ 4 Ban Chấp hành TW Hội có chủ trương tiến hành Đại hội nhiệm kỳ vào cuối năm 2011, vì vậy TW Hội vừa tích cực triển khai các hoạt động, các cuộc hội thảo lớn, vừa củng cố Ban Chấp hành để chuẩn bị cho Đại hội.
- Ngày 1/7/2011, TW Hội họp kỳ thứ 5 đã tiếp tục bổ sung 5 đồng chí mới vào Ban Chấp hành TW Hội, đưa tổng số ủy viên Ban Chấp hành TW Hội lên 78 đ/c. Tuy vậy trong tổng số 78 đ/c có tên trong danh sách Ban Chấp hành TW Hội, có trên 20 đ/c ít tham gia các hoạt động của Hội, không liên hệ với thường trực TW Hội hoặc Văn phòng TW Hội. Vì vậy, qua ý kiến đề xuất của các đ/c Ủy viên Ban Chấp hành tại các kỳ sinh hoạt thường vụ, TW Hội đã xin ý kiến các đ/c đó và xin ý kiến các đ/c trong Ban Chấp hành TW Hội. Được sự nhất trí cao của Ban Chấp hành TW Hội nên tại kỳ họp lần thứ 6, Ban Chấp hành TW Hội đã có Nghị quyết rút khỏi danh sách Ban Chấp hành TW Hội 23 đ/c và bổ sung vào BCH TW Hội 2 đ/c mới, đến nay BCH TW Hội có 57 đ/c (Danh sách kèm theo).
Quá trình thay đổi Ban Chấp hành TW Hội đều do yêu cầu thực tế bảo đảm sự chỉ đạo của Ban Chấp hành TW Hội, quá trình thay đổi thực hiện đúng nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, tập thể bảo đảm sự tồn tại, phát triển của Hội phù hợp với đặt điểm cơ quan lãnh đạo của tổ chức xã hội nghề nghiệp trong thời kỳ đổi mới chống mọi biểu hiện bảo thủ, trì trệ, thiếu trách nhiệm.
Cơ cấu nhân sự Ban Chấp hành TW Hội cuối nhiệm kỳ I: số lượng 57 đ/c.
- Giới tính: Nam: 48 đ/c, tỷ lệ 84%
Nữ: 9 đ/c, tỷ lệ 16%
- Tuổi đời: bình quân 62 tuổi
Trên 70 tuổi có 17 đ/c, chiếm tỷ lệ 30%
Từ trên 60 tuổi đến 70 tuổi: có 18 đ/c, chiếm tỷ lệ 32%
Từ trên 50 tuổi đến 60 tuổi: có 11 đ/c, chiếm tỷ lệ 19%
Từ trên 40 tuổi đến 50 tuổi: có 4 đ/c, chiếm tỷ lệ 7%
Dưới 40 tuổi: có 7 đ/c, chiếm tỷ lệ 12%
- Trình độ PGS, TS trở lên có 20 đ/c, chiếm tỷ lệ 35%
- Đang làm việc tại các cơ quan Nhà nước có 8 đ/c, tỷ lệ 14%
- Làm việc tại các đơn vị trực thuộc TW Hội có 15 đ/c, tỷ lệ 26%.
Như vậy qua 6 năm làm việc Ban Chấp hành TW Hội đã có 6 kỳ họp chính thức và ngoài những công việc chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của Hội, Ban Chấp hành TW Hội đã có những quyết định thay đổi nhân sự cho phù hợp với thực tế tình hình phát triển của Hội. Ngoài các kỳ họp của Ban Chấp hành, TW Hội đã có 6 kỳ họp của thường trực TW Hội và 14 kỳ họp của Ban Thường vụ. Từ năm 2010 và 2011, làm việc của Ban Chấp hành, Thường vụ, thường trực cũng có những đổi mới hơn, tăng cường trao đổi thông tin qua mạng internet và điện thoại di động, giảm được thời gian và chi phí đi lại để dự các cuộc họp.
Đánh giá chung: Ban Chấp hành TW Hội nhiệm kỳ I đã có những cố gắng hoàn thành nhiệm vụ do Đại hội lần thứ nhất giao phó, tổ chức thực hiện nhiệm vụ do Đại hội đề ra và duy trì phát triển Hội chuẩn bị sang nhiệm kỳ mới.
II. Dự kiến nhân sự Ban Chấp hành nhiệm kỳ II
1. Yêu cầu Ban Chấp hành TW Hội nhiệm kỳ II
- Đại diện cho TW Hội ở các lĩnh vực hoạt động, các địa phương có phong trào xây dựng Hội, các cơ sở trực thuộc Hội, các nhà khoa học, nhà quản lý.
- Có khả năng tập hợp lực lượng tranh thủ được sự cộng tác, giúp đỡ của các lực lượng xã hội, các nhà khoa học, các chuyên gia. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
- Tác phong làm việc hiện đại, năng động, chủ động, sáng tạo, tôn trọng tập thể, tạo được đồng thuận trong các hoạt động của Hội.
2. Dự kiến cơ cấu, số lượng
Số lượng dự kiến Ban Chấp hành TW Hội có từ 50 đến 60 đ/c.
Cơ cấu: 30% đại diện các địa phương, Hội thành viên
30% đại diện các đơn vị trực thuộc
40% các nhà khoa học, quản lý
Trên cơ sở Ban Chấp hành TW Hội hiện tại có 57 đ/c, đề nghị các đ/c ủy viên Ban Chấp hành TW Hội cho ý kiến về sống lượng, cơ cấu, cá nhân cụ thể các đ/c cũ, giới thiệu mới. Trên cơ sở ý kiến giới thiệu của các đ/c thành viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ TW Hội sẽ xem xét trình Ban Chấp hành thông qua danh sách dự kiến để trình ra Đại hội.
| K/T CHỦ TỊCH PHÓ CHỦ TỊCH THƯỜNG TRỰC BÙI DUY TẢO |
TW HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM __________________ Số /BC-TWH | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ______________ Hà Nội, ngày …. tháng …. năm 2011 |
BÁO CÁO TỔNG KẾT CÔNG TÁC NHIỆM KỲ I (2006-2011)
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NHIỀM KỲ II (2011-2016)
của Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài Việt Nam
Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài Việt Nam là một tổ chức xã hội hoạt động trong lĩnh vực nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, phát hiện hỗ trợ nhân tài đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, giữ vững độc lập, tự chủ.
Trung ương Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài Việt Nam được Chính phủ cho phép thành lập theo Quyết định số 2367/QĐ-BKHCN ngày 02/12/2004 của Bộ Khoa học và Công nghệ, Quyết định số 33/2005/QĐ-BNV ngày 07/3/2005 và Quyết định phê duyệt Điều lệ số 720/QĐ-BNV ngày 15/6/2005 của Bộ Nội vụ.
Đến nay đã kết thúc nhiệm kỳ I (2006 – 2011). Trong năm năm qua, hoạt động của Hội đã trải qua những bước thăng trầm, nhất là trong thời gian từ 2005 đến 2009 gặp nhiều khó khăn khách quan và chủ quan, từ tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý đến việc thống nhất hành động trong Ban Chấp hành, trong Thường trực, Thường vụ…
Với tinh thần tâm huyết, tận tụy vì sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực, nhân tài của một bộ phận trong Thường trực, Thường vụ, Ủy viên Ban Chấp hành và đa số hội viên đoàn kết quyết tâm duy trì và phát triển Hội, đồng thời được sự quan tâm của TW Đảng, Chính phủ và Chính quyền địa phương… cho nên từ năm 2009 đến năm 2011 tổ chức bộ máy và nhân sự TW Hội được củng cố và tăng cường, các Hội thành viên, các Chi hội, Hội viên và các đơn vị trực thuộc tiếp tục được phát triển… nhiều cuộc hội thảo mang tính quốc gia và quốc tế được tổ chức trên cơ sở đó để kiến nghị, đề nghị với Đảng và Nhà nước xem xét, bổ sung các chính sách trong lĩnh vực nhân lực, nhân tài đồng thời để quảng bá cho sự nghiệp của Hội
PHẦN THỨ I
TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG NHIỆM KỲ I (2006-2011)
I. Công tác tổ chức và nhân sự TW Hội
1. Về phát triển Hội
Sau khi tiến hành Đại hội lần thứ I (5/2005), mãi đến ngày 15/5/2006 mới được phê duyệt Điều lệ và có con dấu. Trong một năm mặc dù chưa đủ cơ sở pháp lý để hoạt động song Ban Chấp hành, Ban Thường vụ đã triểu khai toàn diện các mặt công tác và tổ chức thành công lễ kỷ niệm một năm ngày có quyết định thành lập Hội (21/5/2006). Trung ương Hội vừa củng cố, kiện toàn tổ chức vừa phát triển Hội và Hội viên trong điều kiện không mấy thuận lợi. Là tổ chức xã hội tham gia phản biện về phát triển nguồn nhân lực, nhân tài trong công cuộc hiện đại hóa nước nhà nên thành viên của Hội rất đa dạng. Đến nay TW Hội có 725 Hội viên, nếu tính cả Hội viên của các Hội thành viên thì có 1574 Hội viên, bao gồm 0,32% Hội viên nguyên là ủy viên TW Đảng; 0,89% Hội viên là nguyên Bộ trưởng, Thứ trưởng; 13,8% nguyên là lãnh đạo cấp Vụ, Cục; 2,38% là Giáo sư, phó giáo sư, Tiến sỹ; 21,85% là thạc sỹ, kỹ sư, cử nhân; 3,49% là nhà báo; 5,27% là chuyên gia tài chính doanh nghiệp; 5,14% là Tổng Giám đốc, Giám đốc. Với đặc điểm là có gần 2/3 trong tổng số Hội viên đang làm việc tại các cơ quan, tổ chức… trong nhà nước và dân lập.
Đồng thời trong thời gian qua đã thành lập được 4 thành hội, tỉnh hội; 14 chi hội và 30 đơn vị trực thuộc TW Hội bao gồm 9 viện nghiên cứu, 1 trường dạy nghề, 14 trung tâm khoa học, 4 công ty và Quỹ hỗ trợ nhân tài (xem phụ lục 01 kèm theo).
2. Về nhân sự TW Hội
Ngày 25/5/2005 Đại hội lần thứ nhất đã bầu ra 67 ủy viên Ban Chấp hành, 19 ủy viên Thường vụ. Ban Thường trực gồm 6 đồng chí (1 chủ tịch và 5 phó chủ tịch) và thành lập 5 Ban chuyên môn bao gồm: Văn phòng TW Hội, Ban Công tác Hội và Hội viên, Ban Đào tạo, Ban Hợp tác quốc tế, Ban Dự án và nghiên cứu khoa học.
Bộ máy chuyên trách làm việc thường xuyên tại cơ quan có đến 15 người, trong đó cán bộ nhân viên văn phòng có lúc đến 8 cán bộ, và chỉ có Văn phòng, Ban Công tác Hội, Ban Đối ngoại có Điều lệ và triển khai công tác. Trong quá trình hoạt động bộc lộ nhiều khó khăn khách quan và chủ quan như thiếu nguồn tài chính trong việc thuê trụ sở, trả tiền lương và phụ cấp , bộ máy cồng kềnh, hiệu quả công việc chưa cao. Các đồng chí trong thường trực, thường vụ, Ban Chấp hành có sự biến động do tuổi cao sức khỏe yếu, kiêm nhiệm nhiều công việc đã xin thôi hoạt động, vì vậy về nhân sự và tổ chức thường xuyên có sự điều chỉnh để phù hợp với thực tế…
Đến ngày 18, 19 tháng 12 năm 2010, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành lầm thứ 4, nhiệm kỳ I đã thảo luận và ban hành nghị quyết trong đó có sự thay đổi lớn về nhân sự, củng cố một bước về tổ chức. Cho đến nay Ban Chấp hành TW Hội còn lại 57 đồng chí, Ban Thường vụ có 16 đồng chí, Ban Thường trực có 9 đ/c gồm 1 Chủ tịch và 8 phó Chủ tịch (trong đó có 3 đ/c là phó Chủ tịch phụ trách ở phía Nam và thành phố Hồ Chí Minh).
Đến đầu năm 2011, điều hành công việc cơ quan hàng ngày có 2 đồng chí phó Chủ tịch và 1 cán bộ văn phòng, huy động thêm 2 đồng chí lãnh đạo các đơn vị trực thuộc kiêm nhiệm làm phó Ban Công tác Hội và Hội viên , phó Văn phòng để giải quyết công tác khi có nhiều công việc đột xuất. Có thể xem đây là mô hình gọn nhẹ và thích hợp trong điều kiện cơ sở vật chất và tài chính của Hội đang còn nhiều khó khăn, giải quyết kịp thời các yêu cầu của Hội viên, các Chi hội, các Hội thành viên và các đơn vị trực thuộc một cách nhanh nhạy hơn. Đồng thời tăng cường sự phối hợp giữa TW Hội với các ngành, các cấp ở TW và địa phương…
Nhìn chung các cuộc họp của Ban Chấp hành, Ban Thường trực, Thường vụ từ khi thành lập đến nay được tiến hành đúng điều lệ, các nghị quyết ban hành kịp thời, các báo cáo hàng năm cho các cơ quan cấp trên gửi đầy đủ và đúng thời hạn.
II. Hoạt động của TW Hội
1. Về công tác tư vấn phản biện
Trong năm năm qua, vừa phải đối phó với khủng hoảng về cơ cấu, pháp lý, vừa phải kiện toàn công tác tổ chức, nhân sự, vừa phát triển Hội viên, các tổ chức trực thuộc TW Hội. Từ chỗ không có một đơn vị thành viên nào và chỉ có hơn 350 hội viên ban đầu thì đến nay đã phát triển được cả bề rộng lẫn bề sâu, hoạt động của TW Hội bước đầu đi vào thực chất.
TW Hội đã cố gắng trong việc tăng cường quan hệ với các Bộ, các ngành, các cấp ở TW và địa phương. Tổ chức nhiều Hội nghị, mở rộng sự hợp tác và sự tham gia của các Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Lao động, thương binh và xã hội, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Tổng cục Thống kê, văn phòng TW Đảng, Ban Đối ngoại TW, … bàn về kế hoạch phối hợp khảo sát, phân loại, đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa. Đã tổ chức 02 Hội nghị tập hợp và tiếp thu ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý, các doanh nhân… trong việc thành lập cơ sở dữ liệu nhân lực nhân tài, tạo lập hệ thống thông tin khoa học thực tiễn về nguồn nhân lực có kỹ năng chuyên môn cao để giới thiệu cho nhà sử dụng lao động và các ngành kinh tế… Tuy nhiên, cũng mới dừng lại, chưa triển khai được bộ máy tổ chức các dự án để thực hiện do chưa có nguồn kinh phí.
Đặc biệt trong năm 2011 đã tổ chức 3 cuộc Hội thảo lớn với tầm quốc gia và quốc tế tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế 11 Lê Hồng Phong – Hà Nội.
a/ Hội thảo “Đào tạo Nhân Lực – Những thuận lợi và trở ngại” tổ chức ngày 01/7/2011 có 150 đại biểu đến dự, có 53 đại biểu và phóng viên các cơ quan thông tin đại chúng đến dự và đưa tin.
b/ Hội thảo “Phát triển nhân lực vùng ven biển Việt Nam trong biến đổi khí hậu” tổ chức ngày 26/8/2011, có 220 đại biểu đến dự, trong đó có 24 đại biểu các tỉnh ven biển, có 47 đại biểu và phóng viên các cơ quan thông tin đại chúng đến dự và đưa tin.
c/ Hội thảo “Nhân Tài đối với thịnh suy của Đất Nước” tổ chức ngày 27/9/2011, có 250 đại biểu đến dự, có 71 đại biểu và phóng viên các cơ quan thông tin đại chúng đến dự và đưa tin.
Mục đích của các hội thảo tổ chức lần thứ nhất này là mời các Nhà lãnh đạo, các Giáo sư, Tiến sỹ, chuyên gia đầu ngành chuyên sâu theo các chuyên đề có tham luận và đóng góp ý kiến giúp cho TW Hội tổng hợp được các nội dung kiến nghị, đề nghị các cơ quan Đảng và Nhà nước xem xét bổ sung vào các chính sách cho phù hợp, đồng thời TW Hội cũng quảng bá tổ chức Hội, sự nghiệp Hội và thông qua hội thảo để tìm kiếm các cơ hội hợp tác trong nước và quốc tế phát triển cơ sở Hội, đây là cơ hội mới cho phát triển tổ chức Hội cả bề rộng lẫn chiều sâu.
Việc tổ chức thành công các cuộc hội thảo này là một cố gắng lớn của TW Hội và các đơn vị trực thuộc, các Hội thành viên, Chi hội và Hội viên. Qua việc tổ chức hội thảo, chúng ta đã mời được các Vị Lãnh đạo cấp cao Đảng - Nhà nước, các Giáo sư, Tiến sỹ khoa học, các Chuyên gia đầu Ngành của nhiều lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, các Nhà hoạt động Chính trị - Xã hội, đại diện các cơ quan TW Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, Ngành và địa phương hữu quan tham gia viết tham luận, tham dự và phát biểu tại Hội thảo.
Được sự phối hợp giúp đỡ của các cơ quan báo chí và truyền thông đã chuyển thông tin nhanh, kịp thời trên các đài phát thanh, truyền hình và báo chí về các hoạt động của TW Hội đến công chúng trong Nước và Quốc tế.
2. Về công tác truyền thông và đối ngoại
Trong thời kỳ 2005 đến 2007, đã phát hành 12 số bản tin “Tri thức và phát triển”, mỗi đợt phát hành 2000 bản, mỗi số 32 trang với tổng số là 24.000 bản. Các thông tin hoạt động của Hội đã gửi đến lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bộ, các ngành, đến Bí thư, Chủ tịch của 64 tỉnh thành và cung cấp thông tin miễn phí cho toàn thể Hội viên. Trang Website của Trung ương Hội được thiết lập ngay từ cuối năm 2006 đến nay đã có gần 10 triệu người truy cập, hiện nay đang được nâng cấp. Hoạt động của Hội cũng đã được giới thiệu trên tạp chí Cộng sản, số Xuân năm 2008 và báo Đại biểu nhân dân… Tuy vậy cho đến nay do ảnh hưởng suy thoái kinh tế không đủ kinh phí để duy trì bản tin, cũng như việc nâng cấp thành tạp chí.
Công tác đối ngoại được triển khai ngay từ ngày đầu mới thành lập. TW Hội đã tiếp và làm việc với các đoàn nước ngoài như: Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng Canada, đoàn Trường đại học Vân Nam Trung Quốc, các Tổ chức phi Chính phủ Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Hiệp hội những người thần đồng Vương quốc Bỉ… và các công ty Việt kiều, Ba Lan, Liên Bang Đức,… TW Hội đã mời đoàn cựu Chủ tịch Hội “Mensa” Vương quốc Bỉ vào Việt Nam hướng dẫn phương pháp trắc nghiệm chỉ số thông minh (IQ) cho Tập đoàn Tâm Việt… và tổ chức Hội thảo về vấn đề này tại Văn phòng TW Hội, đồng thời đã gửi 3 dự án đề nghị xin tài trợ cho Đại Sứ quán Phần Lan, Đại Sứ quán Australia và Quỹ hỗ trợ cộng đồng Lawrence S.ting, đó là dự án “Tham gia của người dân thúc đẩy vào quá trình ra quyết định phát triển kinh tế xã hội ở cấp xã”. Dự án “Tăng cường năng lực cho TW Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài Việt Nam trong lĩnh vực thu thập số liệu, xử lý thông tin, phân tích đánh giá, tổng kết kinh nghiệm, đề xuất cơ chế chính sách và phát hiện tuyển chọn bồi dưỡng trọng dụng nhân tài”. Dự án “Trang bị cơ sở để cập nhật thông tin từ Trung ương Hội đến các Hội thành viên, các đơn vị trực thuộc và hỗ trợ tài chính để trao giải thưởng cho Quỹ hỗ trợ nhân tài Việt Nam”. Mặc dù các dự án này chưa được tài trợ nhưng bước đầu đã đặt nền móng cho mối quan hệ giữa TW Hội và một số Đại Sứ quán và Tổ chức quốc tế có mặt ở Việt Nam.
Trong nhiệm kỳ qua, TW Hội đã tạo điều kiện cho một số đơn vị trực thuộc tham dự các cuộc Hội thảo do các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài và trong nước để chia sẻ kinh nghiệm và tìm kiếm các dự án như: Hội thảo đào tạo từ xa do chương trình khu vực PANDORA ASIA Networking (IDRC) tổ chức; Hội thảo liên kết đạo tạo cao đẳng quản lý khách sạn du lịch của Nangang Singapore tổ chức; Hội thảo quản lý các nguồn viện trợ, vai trò của tổ chức phi Chính phủ Việt Nam, tập huấn về xây dựng kế hoạch chiến lược do VNGOA tổ chức…
III. Hoạt động của các Hội thành viên, các Chi hội
Đến nay đã có 04 Hội thành viên trực thuộc TW Hội:
- Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài thành phố Hồ Chí Minh thành lập 03/12/2006.
- Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài tỉnh Lâm Đồng thành lập 02/07/2007.
- Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài tỉnh Nghệ An thành lập 19/8/2007.
- Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài tỉnh Đồng Nai thành lập 30/08/2008.
Và đang xúc tiến thành lập Thành hội thành phố Hải Phòng, Thành hội Thành phố Hà Nội và một số địa phương khác như Bến Tre, Tiền Giang.
Các Hội thành viên sau khi thành lập mặc dù gặp nhiều khó khăn về trụ sở, kinh phí để hoạt động và đội ngũ cán bộ song đã khẩn trương đề ra chương trình hành động, ban hành nghị quyết, thành lập các ban chuyên môn, các đơn vị trực thuộc và triển khai các đề tài nghiên cứu...
- Thành hội Thành phố Hồ Chí Minh: tiếp tục duy trì sinh hoạt thường kỳ, phối hợp với các ban ngành của Thành ủy, Ủy ban nhân dân và các tổ chức xã hội khác xây dựng tiêu chí nhân tài trong công nhân, nông dân, trí thức…, tổ chức 02 cuộc tọa đàm về phát triển nhân lực và phát hiện nhân tài.
- Tỉnh hội Đồng Nai: Sau khi thành lập đã tiếp tục phát triển hội viên ở các huyện, thị trấn và thành phố Biên Hòa, thành lập 20 Chi hội trực thuộc. Đến nay đã có 147 Hội viên. Đồng thời thành lập Trung tâm nghiên cứu đào tạo nhân lực, nhân tài Đồng Nai, liên kết với trường Đại học Lạc Hồng, Đại học sư phạm tỉnh, Viện nhân lực TW và các trường dạy nghề để đẩy mạnh công tác đào tạo. Năm 2011 đã thành lập Quỹ tài năng, trao học bổng trị giá 1.000.000 đồng/suất cho bốn học sinh xuất sắc.
- Tỉnh hội Lâm Đồng: đến nay đã có 96 Hội viên và 5 chi hội ở 5 huyện, đồng thời thành lập trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, thực hiện 2 đề tài khoa học “Thực trạng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Lâm Đồng và giải pháp khắc phục” và đề tài “Vấn đề bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao (nhân tài) tại tỉnh Lâm Đồng qua các thời kỳ từ ngày thành lập tỉnh đến nay. Giải pháp cho thời gian tới”. Hai đề tài này sẽ tổ chức Hội thảo vào cuối năm 2011.
- Tỉnh hội Nghệ An: Đã khẩn trương hướng dẫn thực hiện điều lệ, thành lập 3 chi hội, chuẩn bị cho Hội thảo “Nguồn nhân lực, nhân tài tỉnh Nghệ An, thực trạng và giải pháp”, song do điều kiện khách quan, thiếu nguồn kinh phí cho việc thuê trụ sở và duy trì hoạt động nên hiện nay đang gặp khó khăn trong việc củng cố tổ chức và phát triển.
- Thành phố Hải Phòng:
Tại thành phố Hải Phòng, sau một thời gian khá dài để thay đổi nhân sự trong công tác vận động phát triển Hội tại địa phương, tại Hội nghị Ban Chấp hành TW Hội kỳ 5/ Khóa I đã bổ sung ủy viên Ban Chấp hành Đ/c Trần Vĩnh Hải nguyên là cán bộ của Hải Phòng hiện là Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần hợp tác Quốc tế Sao Biển và Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hải Khánh - Hải Phòng, TW Hội đã giao Đ/c Trần Vĩnh Hải tranh thủ sự quan tâm của Lãnh đạo Thành phố, sự giúp đỡ của các Ban, Ngành chức năng, các tổ chức tại địa phương nên đến tháng 9/2011 đã thành lập Ban Vận động thành lập Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực - Nhân tài Hải Phòng và đã được Sở Khoa học và công nghệ Hải Phòng công nhận. Dự kiến hoàn thành các thủ tục và đại hội vào cuối năm 2011.
5/ Thành phố Hà Nội:
Chi hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài Việt Nam thành phố Hà Nội thành lập tháng 4/2011, với 35 Hội viên ban đầu do Đ/c Bùi Thành Phần - Phó Chủ tịch TW Hội là Chủ tịch Chi Hội đã thực hiện triển khai nhanh công tác ổn định tổ chức và sinh hoạt thường xuyên định kỳ. Chi Hội Hà Nội phối hợp công tác với TW Hội để triển khai công tác vận động thành lập Thành hội Hà Nội trong thời gian tới.
6/ Các địa phương khác:
Thường trực TW Hội phụ trách phía Nam đã làm việc với các tỉnh: Tiền Giang, Bến Tre, Khánh Hòa, Bà Rịa Vũng Tàu để vận động thành lập Hội ở các địa phương này, tỉnh Bến Tre đang xúc tiến làm các thủ tục.
7/ Các Chi hội trực thuộc TW Hội:
Trong nhiệm kỳ qua đã phát triển được 14 Chi hội (xem phụ lục 01 kèm theo). Một số Chi hội đã hoạt động tốt, song nhiều Chi hội tổ chức sinh hoạt không thường xuyên nên triển khai công tác Hội còn hạn chế, mặt khác Thường trực TW Hội mới chú ý đến thành lập mà chưa thật quan tâm đến việc theo dõi, chỉ đạo và định hướng cho các đơn vị.
IV. Hoạt động của các đơn vị trực thuộc
Trong thời gian qua có 30 đơn vị trực thuộc của TW Hội được thành lập và được cấp giấy phép hoạt động, trong đó 08 đơn vị hoạt động vào cuối năm 2006, 13 đơn vị hoạt động vào năm 2007, 06 đơn vị hoạt động vào năm 2008 và 03 đơn vị thành lập năm 2009.
Hoạt động của các đơn vị trực thuộc tập trung chủ yếu vào 03 lĩnh vực: nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, liên kết đào tạo với các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề và tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn như tin học, ngoại ngữ, nghiệp vụ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, tham gia các hoạt động dịch vụ biên soạn ấn phẩm, tổ chức Hội thảo…
Trong thời gian qua, hầu hết các đơn vị gặp nhiều khó khăn phải tự lo về tài chính đề thuê trụ sở làm việc, mua sắm thiết bị, trả lương nhân viên và kinh phí cho hoạt động, tổ chức bộ máy và cán bộ… Đặc biệt trong bối cảnh suy thoái kinh tế thế giới và ở nước ta đã ảnh hưởng đến hoạt động của nhiều đơn vị.
Tuy vậy ở một số đơn vị có nhiều cố gắng trong việc tuyển chọn nhân sự, củng cố tổ chức, mời các nhà khoa học làm cố vấn, mở rộng quan hệ với các đối tác, tổ chức hoạt động lồng ghép, lấy ngắn nuôi dài, nhờ vậy một số đơn vị cân đối được thu chi và hoạt động có hiệu quả. Điển hình như các đơn vị sau:
1. Trung tâm Khoa học phát triển nguồn nhân lực Đất Việt: thành lập ngày 2/7/2007 đã liên kết với các trường đại học, đến năm 2010 đã đào tạo được trên 3.678 học sinh, sinh viên, dự kiến trong năm 2011 sẽ là 3.000 học sinh, sinh viên. Đồng thời đã đầu tư nâng cấp phòng máy có trên 60 máy vi tính. Là đơn vị thực hiện tốt việc đóng góp xây dựng Hội 100% theo quy định (2008 – 2010). Đời sống của cán bộ, công nhân viên đều ổn định, thu nhập bình quân là 4.050.000 VNĐ.
2. Trung tâm công nghệ thông tin và truyền thông Vietnet (Vietnet-ict): được thành lập ngày 21/11/2007 đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm các dự án quốc tế, cụ thể là:
a, Dự án “Nâng cao vai trò lãnh đạo nữ của Việt Nam ở các tổ chức tổ chức phi Chính phủ thông qua sử dụng công nghệ” do tổ chức Internews Network Hoa Kỳ tài trợ, với tổng số tiền là 44.000 USD, tương đương với 650 triệu VNĐ thực hiện trong thời gian từ tháng 9/2008 đến tháng 8/2009. Kết quả dự án đã đào tạo được 62 lãnh đạo và cán bộ ở 32 tổ chức phi Chính phủ Việt Nam với 4 nhóm chức năng: truyền thông internet, an ninh mạng, quan hệ công chúng, quản lý dữ liệu.
b, Dự án “Nâng cao kỹ năng quản lý và lãnh đạo cho các nữ lãnh đạo tổ chức phi Chính phủ Việt Nam” trong khuôn khổ quỹ tài trợ nhỏ của Đại Sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam với số tiền tài trợ 15.000 USD tương đương 300 triệu VNĐ thực hiện từ tháng 9/2010 đến tháng 12/2011.
c, Dự án nghiên cứu tính khả thi khi áp dụng mô hình của Digital Divide Data (DDD). DDD là một tổ chức phi Chính phủ chuyên về số hóa hoạt động phi lợi nhuận, tạo cơ hội việc làm cho thành phần người khuyết tật, hoàn cảnh khó khăn, đào tạo các kỹ năng cần thiết để họ có thể làm việc trong môi trường công nghệ thông tin.
d, Trung tâm Vietnet đã đóng góp 1.000 USD cho Quỹ hỗ trợ nhân tài Việt Nam trực thuộc TW Hội. Hoàn thành tốt việc đóng góp xây dựng Hội 100% trong 2 năm 2009, 2010 và đóng góp trong Hội thảo “Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong biến đổi khí hậu” 12 triệu đồng để trả tiền nhuận bút cho 12 bài tham luận.
Đây là đơn vị hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực đối ngoại và đóng góp xây dựng Hội.
3. Trung tâm Khoa học phát triển nguồn nhân lực Thăng Long mặc dù gặp nhiều khó khăn trong liên kết đào tạo, song đã nhanh chóng điều chỉnh phương hướng hoạt động cho phù hợp với điều kiện suy thoái của nền kinh tế. Được sự đồng ý của Sở Giáo dục đào tạo thành phố Hà Nội, Trung tâm thành lập trường Mầm non Thăng Long từ năm 2008 đến nay và đã bắt đầu ổn định số lượng các cháu là 75, đồng thời tư vấn du học cho 3 học sinh đi học tại Canada và Vương quốc Anh. Trong năm 2010 Trung tâm đã tham gia chương trình “Ngày sáng tạo Việt Nam” với chủ đề Biến đổi khí hậu do Ngân hàng thế giới tại Việt Nam tổ chức , đã thu hút 262 đề án dự thi. Kết quả Trung tâm đã trúng giải và được World Bank tài trợ 15.000 USD, tương đương khoảng 250 triệu VNĐ cho dự án: “Ứng dụng quy trình sản xuất phân vi sinh ở cấp nông hộ”, địa điểm thực hiện tại Gia Bình, Bắc Ninh từ tháng 8/2010 đến tháng 8/2011.
Trung tâm đóng góp tiền xây dựng Hội và Giám đốc Trung tâm kiêm nhiệm phó Văn phòng TW Hội từ cuối năm 2010.
4. Trung tâm tư vấn phát triển nhân lực doanh nghiệp đã triển khai đề tài nghiên cứu “Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua sự gắn kết giữa các cơ sở đào tạo và các hiệp hội nghề nghiệp” và đề tài “Nâng cao khả năng xử lý tình huống thực tế cho sinh viên”. Mặc dù gặp khó khăn trong liên kết đào tạo, nhưng Trung tâm đã liên kết với các trường Đại học, cao đẳng, tính đến 31/12/2010 đã mở ra 05 lớp trung cấp chuyên nghiệp, 13 lớp cao đẳng chính quy, 03 lớp liên thông trung cấp, cao đẳng và 01 lớp cao đẳng, đại học trong các lĩnh vực kế toán, quản lý kinh doanh và tin học, đã liên kết đào tạo khoảng 1500 học sinh, sinh viên. Trung tâm đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đóng góp xây dựng Hội 100% (năm 2009, 2010).
5. Trung tâm tư vấn hỗ trợ gia đình, trẻ em nghèo nông thôn (CESPAC) nay đổi tên là Trung tâm tư vấn hỗ trợ giáo dục và y tế cộng đồng (CESPH) đã kết thúc dự án “Hỗ trợ vốn dạy nghề đan móc sợi xuất khẩu” tạo việc làm, tăng thu nhập cho 240 phụ nữ nghèo, trong đó có 90 phụ nữ sống chung với HIV/AIDS tại xã Quỳnh Hưng, Quỳnh Phụ, Thái Bình do quỹ hợp tác phát triển quốc tế Hà Lan tại Việt Nam tài trợ 255.190.000 VNĐ và dự án Nâng cao năng lực truyền thông, pháp lệnh dân chủ cơ sở; luật bình đẳng giới; luật phòng chống bạo lực gia đình cho 161 cán bộ cơ sở và 162 thí sinh của 23 xã, phường, thị trấn của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang do quỹ phát triển quốc tế Canada tài trợ. Do hoạt động còn gặp nhiều khó khăn nên TW Hội cho phép đổi tên, Trung tâm đang tìm nguồn tài trợ từ nguồn phát triển giáo dục Hoa Kỳ. Trung tâm chưa đóng góp đầy đủ theo quy định của TW Hội về xây dựng Hội.
6. Viện Khoa học đào tạo và phát triển kinh tế văn hóa
Trong năm 2008 – 2009 hoạt động có hiệu quả liên kết với các trường đại học, cao đẳng ở Thái Nguyên, Bắc Ninh, Thái Bình đào tạo được 1400 học sinh, sinh viên và đóng góp xây dựng Hội 100%. Từ năm 2010 đến nay hoạt động khó khăn vì Bộ Giáo dục và đào tạo thay đổi cơ chế chính sách (Quyết định 42, Luật giáo dục sửa đổi), do đó việc liên kết đào tạo không triển khai được.
7. Viện Khoa học giáo dục và phát triển tài năng
Có nhiều cố gắng trong việc triển khai chương trình đào tạo ngắn hạn và dài hạn, thực hiện các dự án đào tạo theo hợp đồng với các đơn vị ở tỉnh Bắc Giang để đào tạo tin học văn phòng, lắp ráp, sửa chữa máy vi tính, kế toán, ngoại ngữ với tổng số 5.000 học viên dài hạn và gần 2.500 học viên hệ ngắn hạn. Đơn vị đóng góp xây dựng Hội đạt 30% theo quy định (năm 2009 – 2010).
8. Viện Nghiên cứu và hỗ trợ phát triển nhân lực Doanh nghiệp
Viện Nghiên cứu và hỗ trợ phát triển nhân lực doanh nghiệp thành lập ngày 25/11/2008 gặp nhiều khó khăn trong hoạt động, đã hoàn thành tốt đóng góp xây dựng Hội 100% theo quy định (năm 2010).
9. Viện Khoa học phát triển nhân lực kinh tế và văn hóa
Thành lập ngày 25/12/2006, sau một thời gian dài hoạt động chưa hiệu quả, đến năm 2010 được củng cố về tổ chức và nhân sự đã bắt đầu có chuyển biến tích cực trong việc liên kết với các tỉnh Hưng Yên, Cao Bằng, Bắc Kạn. Thực hiện một số đề tài khoa học tổ chức Hội thảo, xuất bản 02 đầu sách phục vụ cho việc phát triển văn hóa và du lịch ở các địa phương. Đóng góp xây dựng Hội mới được 10% theo quy định (năm 2008-2010), tuy vậy Chủ tịch Hội đồng Viện kiêm nhiệm phó Ban công tác hội và hội viên từ cuối năm 2010.
10. Các Viện khoa học tại TP. Hồ Chí Minh
- Viện Nghiên cứ đầu tư phát triển nhân lực quốc tế Phương Nam: đã mở rộng đa dạng các mô hình đào tạo và đào tạo lại theo hợp đồng được gần 500 học viên về các lĩnh vực kiến thức thị trường chứng khoán, kỹ năng hoạt động của các doanh nghiệp… và 1000 học viên ngoại ngữ. Đã đóng góp xây dựng Hội được 64,52% so với quy định của TW Hội.
- Viện Khoa học phát triển Nhân lực và Tài năng Việt Nam: đã phối hợp với một số đơn vị để triển khai các đề tài khoa học như Thuyết trường quyển vật thể, xây dựng cầu vượt đa năng, phòng chống cháy tự động… tổ chức liên kết đào tạo theo chuyên đề và các lớp ngoại ngữ, tin học. Đã đóng góp xây dựng Hội đạt 50% so với quy định của TW Hội.
- Viện Khoa học phát triển nhân lực quốc tế Sài Gòn: đã có nhiều cố gắng trong liên kết đào tạo với các trường đào tạo trong nước và ngoài nước, nhất là trong những năm 2008 – 2009…, đã đóng góp xây dựng Hội đạt được 50% theo quy định của TW Hội.
V. Khuyết điểm và tồn tại
Nhiệm kỳ I (2006 – 2011) Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài Việt Nam có nhiều cố gắng đề duy trì và phát triển đã đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm và tồn tại cần sớm khắc phục trong nhiệm kỳ II, đó là:
1. Công tác phát triển Hội thời gian qua chưa đáp ứng với mong muốn của toàn thể hội viên, chưa huy động sự đóng góp và khai thác thế mạnh của mỗi thành viên, hoạt động của Hội chưa được quảng bá rộng rãi trong cộng đồng.
2. Một số ít đồng chí ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, các ban chuyên trách ý thức trách nhiệm chưa cao. Trong những năm 2007 – 2008, Thường trực, Thường vụ tập trung nhiều thời gian giải quyết những vấn đề nội bộ, vì thế chưa triển khai được các mặt công tác khác. Đến cuối năm 2010 đã bổ sung thêm nhiều đồng chí trẻ vào Ban Chấp hành, song đến nay vẫn chưa tạo nên sức mạnh.
3. Thường trực, Thường vụ TW Hội, các Hội thành viên đã cố gắng trong việc vận động thành lập các Chi hội, song chưa quan tâm theo dõi, giúp đỡ, chỉ đạo, định hướng hoạt động… Việc thu hội phí, cấp thẻ Hội viên vẫn chưa được triển khai.
4. Chậm thiết lập mối quan hệ giữa Hội TW, Thành, tỉnh hội với các đơn vị quản lý trực tiếp như Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nội vụ, các cơ quan của Đảng, của Nhà nước ở Trung ương và địa phương, các tổ chức chính trị xã hội và các tổ chức phi Chính phủ, các cơ quan truyền thông báo chí.
5. Các đơn vị trực thuộc phát triển chưa bền vững. Ngoài 6 đơn vị hoạt động hiệu quả còn có 16 đơn vị gặp khó khăn và 8 đơn vị phải ngừng hoạt động. Một số đơn vị chưa thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, chưa đóng phí xây dựng Hội.
6. Nguồn tài chính để đảm bảo cho hoạt động của Hội từ Trung ương đến địa phương chưa vững chắc, còn hạn hẹp, chưa đa dạng hóa các nguồn thu, chưa đủ kinh phí để trả lương và phụ cấp cho cán bộ, nhân viên, trụ sở làm việc luôn thay đổi, vì vậy đã ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
VI. Khen thưởng
Hoạt động của Hội trong nhiệm kỳ (2006 – 2011) đã đạt được những kết quả chính là nhờ sự nỗ lực của toàn thể hội viên từ TW Hội, các Hội thành viên, các đơn vị trực thuộc. Trong phong trào thi đua đã xuất hiện các tập thể và cá nhân có nhiều thành tích đóng góp cho sự phát triển của Hội. Thường vụ TW Hội đã xem xét và quyết định tặng bằng khen cho các tập thể và cá nhân sau:
A. Tập thể
1. Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài tỉnh Lầm Đồng
2. Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài tỉnh Đồng Nai
3. Trung tâm Khoa học phát triển nguồn nhân lực Đất Việt
4. Trung tâm Công nghệ thông tin và truyền thông Vietnet
5. Trung tâm Tư vấn phát triển nguồn nhân lực Doanh nghiệp
6. Trung tâm Khoa học phát triển nguồn nhân lực Thăng Long
7. Viện đào tạo và phát triển kinh tế văn hóa
8. Viện Nghiên cứu đào tạo đầu tư phát triển nhân lực quốc tế Phương Nam
B. Cá nhân
1. Ông Nguyễn Khắc Minh – Cố vấn của Viện Nghiên cứu đào tạo đầu tư phát triển nhân lực quốc tế Phương Nam
2. Ông Đỗ Hữu Tài – nguyên Chủ tịch Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài tỉnh Đồng Nai
3. Ông Bùi Văn Nam – Giám đốc Trung tâm Khoa học phát triển nguồn nhân lực Đất Việt
4. Bà Nguyễn Thu Huệ - Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin và truyền thông Vietnet
5. Ông Đoàn Văn Hoan – Trung tâm tư vấn phát triển nguồn nhân lực doanh nghiệp
6. Ông Cát Văn Huỳnh – Giám đốc Trung tâm Khoa học phát triển nguồn nhân lực Thăng Long
7. Ông Nguyễn Văn Quỳnh – Chủ tịch Hội đồng Viện, Viện phó thường trực Viện Khoa học phát triển nhân lực kinh tế văn hóa.
PHẦN THỨ II
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ II (2011-2016)
Trên cơ sở đánh giá kết quả hoạt động trong nhiệm kỳ I (2006-2011), những khó khăn, thuận lợi trong thời gian tới, phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ II của Hội (2011-2016) như sau:
A. Phương hướng
1. Tích cực khai thác nội lực, phát huy trí tuệ của toàn thể hội viên, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực, các hội thành viên, chi hội các đơn vị trực thuộc để tạo ra các sản phẩm đóng góp cho sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, phát hiện bồi dưỡng nhân tài trên tất cả các lĩnh vực mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11 đã đề ra.
2. Không ngừng nâng cao uy tín và vai trò của Hội trong xã hội, liên kết phối hợp với các cơ quan nhà nước từ TW đến địa phương, các tổ chức xã hội, các cơ quan thông tấn báo chí, các nhà khoa học trong và ngoài nước để làm tốt công tác tư vấn cho Đảng, Nhà nước về chiến lược phát triển nguồn nhân lực, nhân tài trong giai đoạn cách mạng mới.
3. Củng cố và phát triển hội viên, các Chi hội, các Hội thành viên, các đơn vị trực thuộc trong cả nước trên cơ sở bộ máy gọn nhẹ, hiệu quả. Đồng thời phải có phương án về kinh tế tài chính đảm bảo cho hoạt động, thực hiện tốt nhiệm vụ không chỉ trước mắt mà lâu dài để duy trì và phát triển Hội.
B. Nhiệm vụ cụ thể
1. Có tờ trình kiến nghị với Đảng, Nhà nước về các chính sách về nhân lực, nhân tài thông qua các Hội thảo lần thứ 2, lần thứ 3… và xuất bản sách về nhân lực, nhân tài để phổ cập kiến thức trong toàn xã hội.
2. Huy động các nhà khoa học, các nhà quản lý trong và ngoài Hội nghiên cứu lý luận và thực tiễn để tư vấn và phản biện các đề án của Nhà nước, của các tổ chức xã hội và của các địa phương khi có yêu cầu.
3. Hỗ trợ các địa phương tổ chức thành lập các Thành hội, Tỉnh hội, Chi hội; đặc biệt tại các thành phố lớn, các khu công nghiệp theo tinh thần nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ, đồng thời phát triển hội viên mới, Hội tập thể thu hội phí và phí xây dựng Hội, phát thẻ hội viên.
4. Củng cố các đơn vị trực thuộc cả về mặt tổ chức nhân sự trong nhiệm kỳ qua hoạt động chưa hiệu quả như: Quỹ hỗ trợ nhân tài Việt Nam, Viện Khoa học phát triển nhân lực nông thôn và miền núi, Trung tâm tư vấn quản trị nhân lực Phương Đông… Nếu cần thay đổi chủ thể quản lý hoặc gián thể.
5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến rộng rãi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển con người, giới thiệu các hoạt động của Hội trong xã hội thông qua các câu lạc bộ, các cuộc Hội thảo, các cơ quan ngôn luận của Hội như Website, tạp chí và các cơ quan báo chí thông tấn của Nhà nước và các địa phương.
6. Mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh thủ sự hỗ trợ về vật chất và tinh thần bằng các dự án, các chương trình nghiên cứu của các ngành, các cấp ở TW và địa phương, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.
7. Tăng cường mở rộng quan hệ với các cơ quan quản lý cấp trên: Bộ Nội vụ, Bộ Khoa học và công nghệ, Văn phòng TW Đảng, Ban Đối ngoại TW, Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ kế hoạch và đầu tư,… để phối hợp các chương trình công tác nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của mình.
8. Huy động các nhà đầu tư và đóng góp của Hội viên để đảm bảo các nguồn tài chính bền vững cho hoạt động của Hội, có trụ sở, có phương tiện hoạt động.
9. Tăng cường sự đoàn kết và thống nhất trong Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, các Hội thành viên, các đơn vị trực thuộc và toàn thể Hội viên. Củng cố bộ máy của TW Hội gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả.
Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài Việt Nam đã trải qua 5 năm hoạt động của nhiệm kỳ đầu tiên. Năm năm là một thời gian không dài đối với sự tồn tại của một tổ chức xã hội. Chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để đi lên với một kết quả tuy là bước đầu nhưng đáng tự hào. Làm được những điều như trên là nhờ sự nỗ lực của các đồng chí trong Ban Chấp hành, Ban Thường vụ của TW Hội, của các Hội thành viên, các Chi hội, các đơn vị trực thuộc và toàn thể hội viên.
Bước vào nhiệm kỳ II (2011 – 2016), trước những thách thức mới đối với thế giới và đối với nước ta, đòi hỏi chúng ta cần có một quyết tâm mới phát huy năng lực và trí tuệ của toàn thể hội viên, cùng nhau đoàn kết trong ý chí và hành động để củng cố và phát triển Hội bền vững góp phần để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
| TW HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM CHỦ TỊCH VŨ NGỌC PHUƠNG |
TW HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM Số: ……./CV-TWH V/v: Giới thiệu Ban Chấp hành TW Hội Khóa II | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày ….. tháng ….. năm 2011 |
Kính gửi: Các Đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành TW Hội
Khoa học phát triển nguồn nhân lực – Nhân tài Việt Nam
Theo tinh thần chỉ đạo của Ban Chấp hành TW Hội về chuẩn bị cho Đại hội Nhiệm kỳ II của Hội, trong đó có bầu Ban Chấp hành TW Hội khóa II.
Để có được ý kiến của tập thể các Đ/c trong Ban Chấp hành TW Hội về nhân sự, đề nghị các Đ/c cho ý kiến cụ thể về nhân sự khóa mới theo mẫu (phụ lục số 03).
Ý kiến giới thiệu đề nghị các Đ/c gửi về Văn phòng TW Hội trước ngày …../……/2011
Nơi nhận: - Như trên; - Lưu VP TW Hội. | CHỦ TỊCH VŨ NGỌC PHƯƠNG |
Địa chỉ Văn phòng TW Hội: Tầng 2, Nhà B, Số 54 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội
Điện thoại/Fax: 04 37759815.
Email: nhanlucnhantai@gmail.com
TW HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày ….. tháng ….. năm 2011 |
Giới thiệu Ban Chấp hành TW Hội Khóa II
1. Số lượng Ủy viên Ban Chấp hành TW Hội Khóa II: ……………………
2. Nhân sự cụ thể Ban Chấp hành TW Hội Khóa I
Trong danh sách Ban Chấp hành TW Hội Khóa I hiện có 57 Đ/c (phụ lục 02). Đ/c có đề nghị rút Đ/c nào không giới thiệu vào khóa II, ghi cụ thể họ tên:
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
3. Giới thiệu Đ/c mới tham gia Ban Chấp hành TW Hội
STT | Họ và tên | Nam/Nữ | Năm sinh | Trình độ | Chức vụ công tác | Địa chỉ liên lạc, điện thoại |
Xem theo ngày
Các đường link liên kết website của chúng tôi:
Phóng sự ảnh
Tiêu điểm
Người đẹp
|