Việt Nam với thế mạnh nhân lực và năng lực sáng tạo, sự đầu tư mạnh mẽ cho CNTT và truyền thông đã có những nền tảng cơ sở rất tốt để xây dựng nền kinh tế sáng tạo, tạo ra giá trị cao từ những sản phẩm sáng tạo đổi mới.
Thế giới đang đứng trước một sự thay đổi lớn lao về cách thức tạo ra của cải và sức mạnh. Trước đây, sức mạnh được tạo ra từ nền tảng công nghiệp như cơ khí, chế tạo, hoá học, sản xuất... ngày nay sức mạnh đến từ khu vực dịch vụ, thông tin và sự sáng tạo đổi mới. Trong xu hướng phát triển của kinh tế xã hội, sự sáng tạo và đổi mới luôn đóng vai trò quan trọng. Những nhà phát minh lớn, như: Leonardo da Vinci, I.Newton, C.Darwin, A.Einstein, T.Edison, H.Ford, Steve Jobs... đã tạo ra những sự sáng tạo làm thay đổi thế giới.
Có thể nhìn thấy sự dịch chuyển sức mạnh này thông qua hình ảnh của nước Mỹ, thay vì Boeing, GE, IBM, General Motor, Coca Cola... trước đó, thì nay hình ảnh nước Mỹ là Apple, Google, Microsoft, Facebook, Disney... Sức mạnh của nước Mỹ đã dịch chuyển từ nền kinh tế sản xuất công nghiệp sang nền kinh tế dịch vụ và sáng tạo đổi mới dựa trên nền tảng tri thức và Internet.
Việt Nam cũng đang phải lựa chọn cho mình một hướng đi và một vị trí xứng đáng trong nền kinh tế sáng tạo toàn cầu. Người Việt Nam rất thông minh và sáng tạo, những tố chất được thể hiện rất rõ trong lịch sử dân tộc, trong chiến tranh và trong thời gian hoà bình xây dựng đất nước, trong kinh doanh, trong học tập nghiên cứu khoa học với những thành tích đáng tự hào về toán học và cờ vua gần đây. Những ngành dịch vụ sáng tạo có thế mạnh của Việt Nam có thể kể đến: thiết kế, nghệ thuật, giáo dục, du lịch, biểu diễn, thời trang, mỹ thuật, thủ công, mỹ nghệ, văn hoá, ẩm thực...
Khoa học sáng tạo là gì?
Khoa học sáng tạo được nghiên cứu một cách có hệ thống và thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học do nhu cầu thực tế. Những vấn đề được quan tâm gồm nguyên lý sáng tạo, kỹ thuật sáng tạo, tâm lý học sáng tạo.
Cùng với sự phát triển của khoa học sáng tạo, việc áp dụng CNTT và máy tính đã giúp cho khoa học sáng tạo những bước phát triển mạnh mẽ. Sáng tạo học (Creatology) đã trở thành một ngành khoa học chuyên sâu có phạm vi nghiên cứu rộng lớn. Quản lý và giải quyết những vấn đề sáng tạo một cách khoa học là một vấn đề khó và phức tạp vì luôn luôn có yếu tố con người trong các hoạt động sáng tạo.
Nhà nghiên cứu X.L Rubinstein cho rằng "sự sáng tạo là hoạt động của con người tạo ra những chất liệu mới có ý nghĩa xã hội và những chất liệu mới ấy có thể là giá trị vật chất hay tinh thần". Theo nhà tâm lý học người Mỹ Willson thì sáng tạo là "quá trình mà kết quả là tạo ra những kết hợp mới cần thiết từ các ý tưởng dạng năng lượng, các đơn vị thông tin, các khách thể hay tập hợp của hai ba yếu tố được nêu ra". Nhà khoa học Tiệp Khắc J.H Lavsa cho rằng "sáng tạo là sự lựa chọn và sử dụng những phương tiện mới cách giải quyết mới". Sáng tạo bao gồm những khái niệm như: tư duy sáng tạo, năng lực sáng tạo và các hoạt động sáng tạo.
Tư duy sáng tạo là khả năng giải quyết vấn đề bằng cách tạo ra một cái mới bằng cách thức mới và đạt được kết quả một cách hiệu quả. Tư duy sáng tạo gần như là tài nguyên cơ bản của con người. Tư duy sáng tạo gắn liền với việc đưa ra cái mới, sáng chế mới, ý tưởng mới, phương án giải quyết mới. Tư duy sáng tạo thuộc về năng lực ra quyết định, kết hợp độc đáo, liên tưởng hay phát minh ra ý tưởng mới.
Năng lực sáng tạo là khả năng tạo ra những cái mới hoặc giải quyết vấn đề một cách mới mẻ. Đặc trưng của năng lực sáng tạo đó là khả năng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, dựa trên những phẩm chất cá nhân như trí tuệ (IQ), cảm nhận (EQ), trí nhớ, động lực và ý chí cho phép giải quyết vấn đề một cách linh hoạt, độc đáo và hiệu quả.
Hoạt động sáng tạo là một hoạt động đặc biệt bao gồm nhiều thành tố khác nhau để hướng đến kết quả cuối cùng là tạo ra cái mới. Hoạt động sáng tạo đòi hỏi phải có nỗ lực, phải có động cơ sáng tạo và dựa trên năng lực sáng tạo. Hoạt động sáng tạo là một tổng thể của sáng tạo và tái tạo. Sáng tạo hướng đến những sản phẩm mang giá trị mới mẻ, trong khi tái tạo là bước đệm dưỡng sức cho hoạt động sáng tạo.
Thông minh không đồng nhất với sáng tạo
Thông minh và sáng tạo là không đồng nhất với nhau vì sáng tạo có sự ảnh hưởng mạnh hơn của các yếu tố như ý chí, xúc cảm, động cơ. Sự sáng tạo và thông minh là khác nhau ở mỗi cá nhân. Thông minh là một phần quan trọng của trí tuệ cho phép con người nhận thức thế giới một cách sâu sắc, đầy đủ và toàn diện. Sáng tạo là một thành phần khác của trí tuệ, tạo những phát minh, sáng chế, cải tiến, sáng tác, những cái mới, có thể là những sản phẩm thuộc lĩnh vực khoa học xã hội - nghệ thuật.
Sản phẩm của trí thông minh là phát minh có thể tồn tại rất lâu dài, thậm chí vĩnh viễn, nhưng sáng chế là sản phẩm của sáng tạo thì rất nhanh được cải tiến để đi đến sáng chế mới.
Mấu chốt của hoạt động sáng tạo là ý tưởng. Ý tưởng sáng tạo dù là giản đơn hay phức tạp thì chính nó là mấu chốt của hoạt động sáng tạo vì nó là cơ sở và là đích đến của sự sáng tạo. Einstein cho rằng, ý tưởng, trực giác sáng tạo, khả năng đặt vấn đề hay câu hỏi đúng đắn (liên quan EQ) quan trọng hơn việc giải quyết vấn đề thường bao gồm các công việc liên quan đến toán học hay kinh nghiệm (liên quan IQ).
Năng lực sáng tạo được đo lường thông qua các trắc nghiệm. Quá trình này được diễn ra bằng cách đo năng lực sáng tạo khi cá nhân được kiểm tra thử thách thông qua giải quyết các nhiệm vụ đã được chuẩn hoá. Các nhiệm vụ này được thiết kế sao cho đánh giá đúng những tâm điểm của trí tuệ sáng tạo, giúp cho cá nhân bộc lộ năng lực sáng tạo của mình. Các phép thử hành vi trong trắc nghiệm sáng tạo phải chuyển thành các kích thích hành động sáng tạo của cá nhân đo lường.
Phương pháp khoa học quản lý sáng tạo
Các phương pháp nghiên cứu sáng tạo, như Phương pháp đối tượng tập trung (Method of Focal Objects) của F.Zwicky, Tư duy theo chiều ngang (Lateral thinking) của E.D.Bono, phương pháp Động não (Brainstorming) của A.Osborn, phương pháp Đối tượng tiêu chuẩn do F.Kunze nghiên cứu và phương pháp Tổng hợp (Synectic) do W.Gorden đề xuất vào năm 1960.
Phương pháp Sáu chiếc mũ sáng tạo của Edward de Bono: giúp cho chủ thể sáng tạo có được nhiều cái nhìn về một đối tượng mà những cái nhìn này sẽ khác biệt so với các cách nhìn nhận thông thường. Mỗi một chiếc mũ mang một màu sắc tượng trưng cho một dạng thức của suy nghĩ:
(1). Mũ trắng: trung tính, tập trung trên thông tin rút ra được , các dữ liệu căn cứ và những thứ cần thiết, làm sao để nhận được chúng.
(2). Mũ đỏ: nóng, tình cảm, cảm giác, cảm nhận, trực quan, những ý kiến khôg chứng minh hay giải thích lý lẽ.
(3). Mũ đen: phê phán, bình luận, tại sao sự kiện là sai, tất cả những ý kiến cảm xúc tiêu cực bi quan.
(4). Mũ vàng: tích cực, lạc quan, quan điểm tích cực, lợi ích, những điều tốt đẹp.
(5). Mũ lục: sáng tạo, đưa ra những khả năng có thể xảy ra và các giả thuyết, ý tưởng mới.
(6). Mũ xanh dương: là điều khiển, chi phối quá trình, các bước tổ chức, lãnh đạo, suy xét và các kết luận.
Quy trình sáng tạo DOIT (Define problem, Open mind and apply creative techniques, Identify the best solution, Transform): là phương pháp sáng tạo bằng cách hoạt động nhận thức tối đa vấn đề theo hướng cởi mở các ý tưởng hiện tại để hướng đến giải pháp tốt nhất dựa trên việc đánh giá và so sánh các giải pháp.
Các ý tưởng được đưa ra xem là nguồn dữ liệu cần thiết và quan trọng cho sáng tạo. Các thao tác sáng tạo đòi hỏi người sáng tạo phải theo sát, kiểm soát để có kết quả sáng tạo tốt nhất. Các bước bao gồm: (i) Xác định vấn đề (ii) Cởi mở ý tưởng và sáng tạo (iii) Xác định lời giải hay nhất (iv) Chuyển bước và thực hiện lời giải
Sơ đồ ý tưởng (Mind Map) của Tony Buzan: rất dễ dùng và được áp dụng rộng rãi trong thực tế. Sử dụng hình ảnh của sơ đồ để xâu chuỗi các thông tin theo một kết cấu nhất định nhằm nhìn nhận vấn đề hay giải quyết vấn đề theo hướng sáng tạo, gọn ghẽ, khoa học.
Được sử dụng như một phương pháp ghi nhớ chi tiết để phân tích đối tượng, tổng hợp các dữ liệu của vấn đề thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Trên cơ sở đó, các ý tưởng sáng tạo cùng được nảy sinh dựa trên việc phát triển khi liên kết các các dữ liệu, dữ kiện. Phương pháp này hỗ trợ cho sự sáng tạo khi thực hiện động não (Brainstorming), giúp cho ý tưởng được rõ ràng khúc chiết, dễ quản lý và kiểm soát ý tưởng.
Lý thuyết sáng tạo TRIZ (Teoriya Resheniya Izobreatatelskikh Zadatch): do nhà khoa học sáng tạo Genrich Sanfovich Altshuller (Liên Xô) và các cộng sự tạo ra. Đây là lý thuyết lớn với các công cụ hoàn chỉnh nhất trong khoa học sáng tạo.
TRIZ dựa vào kết quả của một cuộc khảo sát và phân tích sâu sắc những quy luật sáng tạo cơ bản ẩn chứa bên trong những sáng chế. Lý thuyết bao gồm 9 quy luật phát trển hệ thống kỹ thuật, 40 nguyên tắc sáng tạo cơ bản để giải quyết các bài toán kỹ thuật, 76 chuẩn để giải các bài toán sáng chế. Có thể áp dụng để tiếp tục tổ hợp hoá các thành phần này theo các cách khác nhau để tạo nên những kết quả đa dạng phong phú.
Nguyên lý sáng tạo TRIZ được áp dụng trong nhiều ngành công nghiệp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. TRIZ được áp dụng để tạo ra những tiến bộ trong ngành phần mềm, công nghệ hoá học, kiến trúc, quảng bá giáo dục. Các tập đoàn lớn như Boeing, Samsung, Johnson&Johnson... đang áp dụng TRIZ trong hoạt động quản lý sáng tạo của mình.
Hệ thống quản lý sáng tạo của Thomas Edison:
Thomas Alva Edison, nhà phát minh hàng đầu với 1093 phát minh sáng chế hữu ích như: bóng đèn điện, máy hát, tàu điện... là nhà tiên phong trong lĩnh vực quản lý sáng tạo một cách khoa học. Với biệt danh "Nhà phù thuỷ ở Menlo Park", Edison nổi tiếng với khả năng tự học hỏi và năng lực sáng tạo mạnh mẽ. Peter Drucker, bậc thầy về quản lý đã gọi Thomas Edison là "hình mẫu lý tưởng cho mọi doanh nhân hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo và công nghệ". Trước Edison, việc phát minh sáng tạo là các hoạt động ngẫu nhiên và đơn lẻ. Hệ thống quản lý sáng tạo của Edison bao gồm phương pháp quản lý sáng tạo, nguyên tắc sáng tạo và những phẩm chất năng lực để sáng tạo hiệu quả.
Phương pháp quản lý sáng tạo của Thomas Edison bao gồm các nguyên lý:
(i). Tư duy hướng tới giải pháp: lấy giải pháp làm trọng tâm là cách giúp Edison luôn có rất nhiều công cụ và phương pháp để giải quyết vấn đề.
(ii). Suy nghĩ đa chiều: tư duy nhiều vấn đề cùng một lúc và xem xét vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau để có sự đa dạng trong tư duy.
(iii). Hoạt động hết mình: hoạt động hết mình với niềm đam mê và sáng tạo tối đa với nguồn năng lượng và sức khoẻ dồi dào cho phép Edison có rất nhiều phát minh sáng chế.
(iv). Sáng tạo siêu giá trị: sáng tạo hữu ích phải đến từ nhu cầu thị trường. Edison luôn phát minh và sáng tạo ra những sản phẩm thiết yếu cho cuộc sống như điện thoại, máy chiếu phim, máy hát đĩa...
Nguyên tắc sáng tạo của Edison được tóm tắt thông qua từ SMART:
(S)pecific: cần xác định những việc cần làm một cách chi tiết cụ thể.
(M)easurable: đo lường, đánh giá quá trình thực hiện như thế nào? Làm sao biết đã hoàn thành mục tiêu
(A)ccountable: hãy chịu trách nhiệm và cam kết thực hiện đầy đủ trách nhiệm để hoàn thành mục tiêu. Đảm bảo rõ ràng trách nhiệm của từng người trong nhóm.
(R)elevant: đảm bảo các mục tiêu cụ thể là phù hợp với với mục đích và giá trị ban đầu.
(T)imeline: thời hạn phải hoàn thành cho từng mục tiêu, công việc sáng tạo cần hoàn thành trong thời hạn cho phép, nếu không sẽ không còn giá trị.
Những phẩm chất và năng lực EDISON cần thiết cho sáng tạo:
(E)motional: theo kinh nghiệm của Edison, trí tuệ cảm xúc đóng vai trò quan trọng trong việc tìm lời giải sáng tạo và hoàn thành mục tiêu. Đam mê gắn với sáng tạo cho phép hoàn thành công việc tốt hơn.
(D)ecisive: sự quyết đoán trong công việc, mạnh dạn đưa ra quyết định, chấp nhập rủi ro và thử thách trong công việc và sáng tạo.
(I)ntergrated: kết hợp một cách rõ ràng thận trọng mục tiêu hiện nay có phù hợp với các định hướng khác hay không và phải đặt trên cơ sở của mục đích chung nhất. Giữ phương châm luôn luôn gắn mục tiêu với những mục đích cao cả hơn ngoài lợi ích cá nhân.
(S)ensory: sử dụng giác quan để cảm nhận và mường tượng ra quá trình thực hiện mục tiêu.
(O)ptimistic: lạc quan và thực hiện mục tiêu là một điều tất yếu.
(N)ow: xác định mục tiêu hiện tại và thực hiện ngay.
Cuối cùng, theo Edison "thành công bao gồm 99% lao động và 1% sáng tạo". Để hoàn thiện sáng chế tạo ra pin kiềm, Edison đã tổ chức thực hiện khoảng 50.000 thí nghiệm. Trong quá trình lao động và sáng tạo, Edison đã tích luỹ được một kho kinh nghiệm và kiến thức khổng lồ. Cùng với những sách vở tư liệu được sưu tầm, kho tri thức sâu rộng này đã giúp Edison tiến hành thành công các hoạt động sáng tạo đổi mới.
Giáo dục khả năng sáng tạo
Dựa trên cơ sở nhận thức mỗi người đều có tiềm năng sáng tạo nhất định, các hoạt động sư phạm giáo dục sáng tạo nhằm tạo nên một cách có chủ ý khả năng sáng tạo hay các thành phần của năng lực sáng tạo bằng những phương pháp và những điều kiện sư phạm phù hợp. Giáo dục có vai trò đặc biệt để nâng cao và phát triển khả năng sáng tạo của con người. Giáo dục sáng tạo có hai hướng chính:
(i)- Hướng dẫn có chương trình, kế hoạch có nội dung nhằm phát triển có chủ định khả năng sáng tạo. Theo hướng này thì có hai kiểu chương trình phát triển sáng tạo được xây dựng là phát triển sáng tạo nói chung và phát triển những thành phần cụ thể của sáng tạo.
(ii)- Giáo dục loại trừ những cản trở cho sự hoạt động sáng tạo. Đây là hướng được áp dụng nhiều trong thực tế thông qua các lớp huấn luyện ngắn hạn theo chuyên đề nhằm nhận ra những yếu tố cản trở sự sáng tạo như: sự sợ hãi, tính ỳ tâm lý, các biện pháp khắc phục để thúc đẩy sự sáng tạo.
Giáo dục có vai trò rất quan trọng để nuôi dưỡng phát triển tư duy sáng tạo. Giáo dục cái mới hay nhồi nhét kiến thức sẽ không bao giờ đủ, thậm chí còn làm tắt đi khả năng sáng tạo. Giáo dục cách sáng tạo để đạt đến cái mới tìm ra cái mới là yêu cầu tối cần thiết, chính là trang bị công cụ tối ưu cho con người khả năng sáng tạo.
Bảo vệ tài sản trí tuệ và giá trị sáng tạo:
Trong các kết quả hoạt động sáng tạo của con người, những sáng chế (License) sẽ được trải qua các bước thẩm định như sau:
(1). Xác định tác giả sáng chế, cải tiến
(2). Xác định các giải pháp kỹ thuật so với chuẩn sáng chế
(3). Cấp giấy chứng nhận tác giả hoặc công nhận sáng chế (Patent)
(4). Xác định quyền chuyển nhượng hay sử dụng
(5). Bảo vệ phát minh sáng chế theo quy mô
Các tổ chức bảo vệ quyền lợi tác giả và phát minh sáng chế gồm NOIP (Cục sở hữu trí tuệ - Việt Nam), WIPO (Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới), UPSTO (Mỹ), EPO (Châu Âu) và Công ước quốc tế Berne. Thông qua các tổ chức bảo vệ phát minh và bản quyền, sự sáng tạo mới sẽ được đánh giá và trả công xứng đáng, đem lại lợi ích kinh tế cho cá nhân và tổ chức thực hiện sáng tạo đổi mới. Từ đó, có động lực thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới và sáng tạo trên quy mô toàn cầu.
Sáng tạo trong nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá
Theo Edison, để sáng tạo cần phải có một trí tưởng tượng phong phú và nền tảng kiến thức sâu rộng. Ngày nay, Internet cung cấp một môi trường hoàn hảo cho sự sáng tạo phát triển. Thông qua Internet, chúng ta có thể học hỏi một cách có hệ thống các kiến thức cần thiết, giao lưu với các cộng đồng sáng tạo trên những diễn đàn chuyên ngành hay các cộng đồng chuyên môn CoP (Community of Practice). Internet còn là nguồn cung cấp thông tin vô tận và mới mẻ về tất cả các vấn đề trong cuộc sống.
Thông qua Internet, các ý tưởng và sáng tạo có thể được kiểm tra, gọt dũa để trở nên hoàn thiện và hữu ích. Thông qua giao dịch eCommerce, ý tưởng và sáng tạo mới được bán và cung cấp cho những khách hàng toàn cầu một cách thuận tiện và nhanh chóng. Ví dụ cụ thể là những sản phẩm, thông tin, dịch vụ, phần mềm được sáng tạo ra ở một nơi và được phân phối thông qua Internet đến tay người dùng trên khắp thế giới.
Trong cuộc vận động phát triển và toàn cầu hoá hiện nay, quốc gia nào có năng lực quản lý và sáng tạo đổi mới tốt hơn sẽ tạo ra nhiều giá trị mới và thu lại được nhiều lợi ích hơn. Việt Nam với thế mạnh nhân lực và năng lực sáng tạo, sự đầu tư mạnh mẽ cho CNTT và truyền thông đã có những nền tảng cơ sở rất tốt để xây dựng nền kinh tế sáng tạo, tạo ra giá trị cao từ những sản phẩm sáng tạo đổi mới.