Dự án VP6 Linh Đàm Chung cư VP6 Linh Đàm

Thứ 5, 28/03/2024

Đang duyệt: Trang chủ Nghiên cứu trao đổi

ĐỔI MỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ 6 VẤN ĐỀ LỚN

Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục phổ thông có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát triển, bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.

 

Trong những năm qua ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng đáp ứng yêu cầu mở rộng và phát triển mạng lưới các trường lớp từ miền núi, đồng bằng, ven biển, hải đảo: Theo báo cáo tổng kết của bộ giáo dục năm 2012, 2013, tổng số học sinh đến trường là 14.747.976, chiếm khoảng 17% so với dân số Việt Nam, trong đó số học sinh tiểu học đến trường là 7.202.767, học sinh trung học cơ sở là 4.869.889, học sinh trung học phổ thông là 2.675.320 và hàng năm có khoảng 250 trường mới được thành lập. Điều đó cho thấy ngành giáo dục gặp nhiều khó khăn về trường lớp học, thiếu thốn cơ sở vật chất, thiếu đội ngũ thầy giáo cả về số lượng và chất lượng, phát triển không theo kịp với yêu cầu tăng lên hàng năm của học sinh và yêu cầu của xã hội. Ngoài ra, những năm qua do ảnh hưởng của cơ chế thị trường, một số bộ phận giáo viên sa sút về phẩm chất,… một số khác không an tâm với nghề nghiệp,… Nguyên Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình đã đưa ra một thực trạng: “Tiến hành khảo sát 950 cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên ở 36 trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông tại 5 tỉnh thành cho thấy: 60% giáo viên phổ thông thẳng thắn bày tỏ nếu được chọn lại nghề thì sẽ không làm nghề giáo”. Thêm vào đó, chương trình và sách giáo khoa còn nhiều bất cập, học chưa gắn với hành, dạy chữ chưa gắn với dạy người, chính quyền trung ương, địa phương và ngành giáo dục chưa có chính sách, cơ chế khuyến khích trong thi cử, tuyển dụng, đãi ngộ cho đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.

Để đổi mới căn bản giáo dục phổ thông, cần nhận thức sâu sắc rằng: con người là yếu tố quyết định, trong đó không chỉ có giáo viên, học sinh mà cả phụ huynh và cộng đồng xã hội cùng tham gia.

Để khắc phục các tồn tại trên, ngành Giáo dục đào tạo cần sớm giải quyết những vấn đề sau:

Một là, đổi mới hệ thống các trường sư phạm trong cả nước, tập trung đầu tư cho các trường đại học, cao đẳng sư phạm trọng điểm bao gồm quy hoạch lại mạng lưới hợp lý, đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường đội ngũ giáo viên giỏi, đây chính là nơi đào tạo nguồn giáo viên vừa hồng vừa chuyên cung cấp cho hệ giáo dục phổ thông trong cả nước.

Hai là, có cơ chế chính sách trong việc tuyển chọn học sinh giỏi vào học ở các trường sư phạm và chính sách sử dụng đãi ngộ sau khi tốt nghiệp ra trường để họ an tâm công tác, sẵn sàng đi làm nhiệm vụ “trồng người” ở các vùng Tổ quốc. Cụ thể là có chính sách lương bổng, điều kiện ăn ở làm việc, quy định thời gian công tác tại các tỉnh miền núi, hải đảo, các trường nội trú, bán trú… ở các địa phương khó khăn (tương tự như việc thực hiện nghĩa vụ quân sự), sau khi hoàn thành tốt nhiệm vụ được quyền chọn lựa nơi công tác hợp với nguyện vọng của mình và được đào tạo lại để có trình độ và vị trí công tác cao hơn.

Ba là, thầy cô giáo phải thực sự là tấm gương về năng lực và đạo đức để học sinh noi theo, đòi hỏi thầy cô giáo phải cập nhật kiến thức để truyền đạt cho học sinh và phải nhận thức sâu sắc rằng vai trò của người thầy không chỉ truyền thụ kiến thức mà còn cố vấn, hướng dẫn cho học sinh tự học, học theo nhóm, đồng thời người thầy phải tự rèn luyện về phẩm chất, luôn gương mẫu và tâm huyết với nghề nghiệp. Đối với cấp tiểu học và trung học cơ sở, mỗi ngày học sinh có đến 10 giờ ở trường, vì vậy thầy cô giáo phải là biểu tượng để học sinh noi theo.

Bốn là, đổi mới chương trình và biên soạn sách giáo khoa ở cấp học phổ thông, thực hiện bốn dạy: “Dạy chữ”, “Dạy người”, “Dạy nghề”, “Dạy ngoại ngữ” trên nguyên tắc tích hợp cao ở lớp và cấp học dưới, tự chọn và phân hóa cao ở lớp cấp học trên, chuyển từ việc truyền thụ kiến thức một chiều từ thầy sang trò bằng phương pháp giáo dục mới, nhằm hình thành phẩm chất của người học,… Có như vậy, sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, các em có được một nghề để bước vào cuộc sống tự lập; đối với các em vào đại học, có thể nghe thầy giảng bài một số môn học bằng tiếng Anh. Làm được điều đó chắc chắn ngành giáo dục nước ta sẽ hội nhập với khu vực và thế giới, đồng thời các em có chỗ đứng vững chắc trong xã hội để tiếp tục vươn lên.

Năm là, phải nhận thức sâu sắc và xác định rõ mối quan hệ hữu cơ về đào tạo con người từ lúc nhỏ cho đến lúc trưởng thành gắn liền giữa gia đình, nhà trường và xã hội, bắt đầu từ giáo dục mầm non, trung học cơ sở, trung học phổ thông, học nghề, cao đẳng, đại học… xem đây là một hệ thống gắn bó với nhau trong dây chuyền đào tạo. Từ đó cần xem xét lại việc soạn thảo sách giáo khoa, giáo trình giảng dạy phải thực sự gắn kết giữa học chữ, học làm người, học nghề, học ngoại ngữ cho phù hợp với từng cấp học.

Sáu là, song song với việc xã hội hóa trong giáo dục-đào tạo, cần chú ý đến các vùng có tính chất đặc thù như miền núi, vùng đồng bào dân tộc, vùng ven biển, hải đảo và những địa phương kinh tế còn khó khăn. Nhà nước, Trung ương và địa phương cần đầu tư cơ sở vật chất để phát triển các trường nội trú, bán trú tương tự các mô hình “Trường học sinh miền Nam”, “Trường bổ túc công nông”, “Trường bổ túc văn hóa” của thập kỷ 50, 60 thế kỷ trước. Từ đó cần có chương trình, nội dung giảng dạy đặc thù cho phù hợp với từng đối tượng. Có như vậy mới đáp ứng nhanh nguồn nhân lực phục vụ tại chỗ, kịp thời cho xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế và bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Đồng thời khuyến khích các tỉnh thành xây dựng mô hình “trường chuyên”, “trường chất lượng cao” để bồi dưỡng nhân tài, hiền tài cho đất nước, đào tạo đội ngũ cán bộ để tham gia hội nhập vào khu vực và thế giới.

Giáo dục phổ thông có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Cả nước hi vọng ngành giáo dục thực hiện thành công đề án đổi mới căn bản và toàn diện cấp học phổ thông trong năm 2015, phấn đấu đến năm 2020 có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông như Nghị quyết lần thứ 8, Ban Chấp hành TW khóa XI đã đề ra.

 

TS. Hồ Văn Hoành

Phó Chủ tịch TW Hội Khoa học phát triển

nguồn Nhân lực - Nhân tài Việt Nam

 

Theo Tạp chí Doanh nghiệp, Doanh nhân và Thương hiệu (số 10 - 7/2014)

Đánh giá của bạn về bài viết

Tổng số: 0 Trung bình: NaN
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC TRUNG ƯƠNG HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM NHIỆM KỲ III (2022 - 2027)HỘI NGHỊ, GIAO LƯU BAN LÃNH ĐẠO TW HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM VỚI CÁC ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC VÀ BAN VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP THÀNH HỘI NHÂN LỰC - NHÂN TÀI HÀ NỘI
VIETNET-ICTYVS VietnamViện Nghiên cứu phát triển Lãnh đạo chiến lược Viện Nghiên cứu chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranhViện Khoa học đào tạo phát triển nhân lựcTrung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữTrung tâm Giáo dục và phát triển