Dự án VP6 Linh Đàm Chung cư VP6 Linh Đàm

Thứ 7, 20/04/2024

Đang duyệt: Trang chủ Tin tức - sự kiện

CHUYỆN NGHỀ, CHUYỆN ĐỜI CỦA NHỮNG GIÁO VIÊN VÙNG CAO TÂY BẮC

Chuyện nghề, chuyện đời của những giáo viên vùng cao Tây Bắc

Bài 1: Những hy sinh thầm lặng

Nói Tây Bắc là người ta nghĩ ngay đến một miền đồi núi điệp trùng, đầy gian khó. Nhưng ngày ngày trên những rẻo núi cao, thung sâu ấy, vẫn có một đội ngũ thầy, cô giáo miệt mài gắn bó với công việc “gieo chữ”, góp phần ươm những mầm xanh cho đất nước. Trong hành trình lên với vùng cao Tây Bắc mới đây, nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân thêm hiểu những tấm lòng cao cả của thầy, cô giáo ở một trong những miền xa xôi, gian khổ nhất nước ta.

Phải nói luôn rằng khi tốt nghiệp các trường sư phạm, nhiều thầy, cô giáo xung phong lên vùng cao chỉ với mong muốn có công việc ổn định, phù hợp với ngành nghề được đào tạo. Tuy nhiên, quá trình công tác, bằng sự đồng cảm, lòng yêu nghề, họ thực sự trở thành những “chiến sĩ văn hóa” đem ánh sáng tri thức tới vùng cao.

Còn thầy, còn trò là còn lớp

Đoàn công tác của chúng tôi có 5 người. Sở dĩ đi nhiều vậy là bởi chúng tôi có tham vọng chia lẻ đội hình để đến với nhiều điểm trường hơn. Mục đích chính của chuyến công tác này là ghi nhận thực tế đời sống giáo viên vùng cao, ngoài ra còn nhằm khảo sát những điểm trường khó khăn nhất để phối hợp với các nhà tài trợ xây tặng lớp học, tặng áo quần, sách vở cho học sinh. Việc này thực tế nhiều năm qua Báo Quân đội nhân dân đã làm và làm có hiệu quả. Trước chuyến đi này, đại diện Chi đoàn cơ sở Báo Quân đội nhân dân cùng nhà tài trợ và chính quyền địa phương đã khánh thành một phòng học mới xây ở điểm Trường Mầm non thuộc bản Nùng Tạo (xã Huổi Mí, huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên). Tình cảm của các thầy, cô giáo nơi điểm trường heo hút này càng giúp chúng tôi có thêm động lực trên hành trình tới thăm giáo viên vùng cao.

Khí thế hừng hực là vậy song chúng tôi cũng phải “nằm nghỉ” ở Bộ CHQS tỉnh Sơn La một đêm, đến sáng hôm sau mới vào được thực địa. Lý do, địa hình bị chia cắt do trận lũ quét đầu tháng 8 vừa qua. Ở Sơn La có điểm trường tiểu học của xã Nặm Păm bị tàn phá nặng nề nhất. Đứng trước khung cảnh hoang tàn, chúng tôi cảm thấy trái tim quặn thắt. Những tảng đá lớn quét dọc vùng lũ, nằm lổn nhổn dưới lòng sâu hai bên con đường công vụ mới đắp còn ngổn ngang đất đá. Thầy Phạm Văn Chính, Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) huyện Mường La bồi hồi kể: “Con đường công vụ này vừa được làm sau trận lũ quét. Con đường chính trước kia nằm men bờ suối, nhưng cũng rất khó đi. Dù từ thị trấn đến trường chỉ hơn chục cây số, nhưng khoảng cách ấy cũng phải đổi bằng gần một giờ đồng hồ vừa đi xe, vừa dắt bộ”.

Học sinh Trường Tiểu học Nặm Păm (huyện Mường La, tỉnh Sơn La) đến trường trên con đường mới làm.

Gần trưa, xe của đoàn công tác mới đến nơi. Cô Trần Thị Thúy, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Nặm Păm (huyện Mường La, tỉnh Sơn La) đón đoàn bằng dòng nước mắt nóng hổi lăn dài trên gò má. Chỉ còn chưa đầy một năm nữa, cô Thúy sẽ về nghỉ hưu. Gần 30 năm cống hiến cho giáo dục, cô Thúy gắn bó với Mường La. Dấu chân của cô in hằn trên nhiều vùng đất “mây mù gió núi”, “nước độc rừng thiêng”. Cô Thúy là người Nam Định, công tác ở Nặm Păm đến nay vừa tròn 29 năm, 6 tháng. Gia đình của cô cũng đã “hợp lý hóa” khi chồng từ quê lên cùng cô xây dựng kinh tế mới vùng cao.

Vào thời điểm diễn ra trận lũ quét, gia đình cô Thúy và nhiều giáo viên đứng bên mép suối đau đớn nhìn 15 phòng học ở điểm trường trung tâm từ từ bị dòng lũ cuốn trôi. Đến 5 giờ sáng, nét thảng thốt vẫn hằn in trên gương mặt mọi người. Dường như, họ vẫn chưa hiểu được điều gì đã xảy ra. Trong nỗi đau lũ quét mất trường, nhưng vẫn còn một niềm an ủi nhỏ: Toàn bộ học sinh và giáo viên đều an toàn. Còn thầy cô, còn học sinh nghĩa là còn trường. Cái điều giản dị đến hiển nhiên ấy chắc chỉ có những giáo viên vùng cao mới thấm thía đủ đầy, ngành ngọn.

Kinh nghiệm nhiều chuyến đi thực tế trước đó cho chúng tôi biết rằng, việc bão lũ thiên tai hủy hoại cơ sở vật chất, trong đó có trường, lớp diễn ra thường xuyên. Và bao lần những người giáo viên đã phải gây trường, dựng lớp lại từ đầu. Nhà giáo ở vùng cao đã tự nhận họ quen với nhiều số không: Không lớp, không nhà công vụ, thậm chí không cả học sinh! Nhưng bằng sự tâm huyết, trách nhiệm với nghề và tình yêu học trò, trường lại mọc lên và rộn tiếng trẻ vui cười.

Nhìn ánh mắt cương nghị của cô Thúy, chúng tôi biết cô và các đồng nghiệp sẽ quyết tâm dựng lại mái trường dù phía trước khó khăn còn trùng điệp như núi rừng Tây Bắc.

Quê hương mới

Ngược lòng hồ thủy điện Sơn La lên tới đất Lai Châu rồi tá túc ở Bộ CHQS tỉnh một đêm, sáng hôm sau chúng tôi vượt núi, lên đến điểm cao gần 1.500m và dừng chân ở điểm Trường Phổ thông Dân tộc bán trú (PTDTBT) THCS Nậm Cha (xã Nậm Cha, huyện Sìn Hồ). Ở đây, các cô giáo, thầy giáo cũng có những hy sinh thầm lặng mà chúng tôi gọi là “chiến sĩ vượt khó”.

 

Cô giáo Lò Thị Cương, Trường Tiểu học Chiềng Hoa A (huyện Mường La, tỉnh Sơn La) nắn từng nét chữ cho các em học sinh.

Cô Tẩn U Mẩy, Phó hiệu trưởng Trường PTDTBT THCS Nậm Cha, là một trong hai giáo viên người địa phương của trường. Cô kể rằng, nếu không có các giáo viên miền xuôi quyết tâm xa quê lên xây dựng quê hương mới thì trường cũng chẳng biết xoay xở ra sao. Nậm Cha thời cô Mẩy phần lớn là rừng già. Người dân có câu nói “đi bảy ngày không thấy mặt trời”. Ít người, xa dân, đường vận tải gần như không có, tất cả hàng hóa nằm trên vai con người. Những chàng trai, cô gái miền xuôi quen với đồng bằng lên đây bám trụ được đã là một kỳ tích. Nhưng hơn thế, họ đã kiên cường vượt qua khó khăn, xây dựng quê hương mới ngày một tươi sáng.

Ở Trường PTDTBT THCS Nậm Cha có nhiều thầy, cô giáo đã trở thành “dân bản” như thầy Ý, thầy Long, cô Tình, cô Trang… Có người phải nén nỗi đau mất mát người thân, nhớ thương quê nhà để bám trường, bám lớp, bám học sinh. Những hy sinh đó thật thầm lặng, không mấy khi được các thầy cô chia sẻ.

Cô Phạm Thị Tình, sinh năm 1987, quê ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Năm 2006, sau khi tốt nghiệp trung cấp sư phạm mầm non Thái Bình, cô được nhận công tác ở Nậm Cha. Thời điểm đó, đường đến đây phải đi từ thị trấn Sìn Hồ chừng 60km, bị chia cắt bởi nhiều vực sâu, đèo cao. Bố dùng xe máy đèo cô vào trường. Vào đến sân trường thì ông bật khóc, nói: “Thôi, về quê làm công nhân cũng được chứ ở đây thì đến chết có khi cũng chẳng thấy mặt con”. Cô Tình thưa, xin bố cho con ở lại một năm, nếu không “hợp đất” sẽ về. Bố cô lại dùng xe máy quay về thị trấn mua 50kg gạo mang vào cho con “làm vốn”. Rồi bố con chia tay nhau từ đấy. Cô Tình bùi ngùi tâm sự: “Thời đó phương tiện liên lạc của cả xã chỉ có một chiếc máy điện thoại để bàn, tiền lương thấp không đủ về thăm quê. Bố em bất ngờ qua đời sau một cơn đột qụy. Thế mà... em cũng không thể về để nhìn mặt ông lần cuối”.

Nỗi đau đó, cô nén để trong lòng, dặn lòng chớ phụ công bố mà gắn bó với Nậm Cha. Mới đó mà đã 11 năm xa quê, đến giờ cô đã xây dựng gia đình, có một mái nhà xinh xắn và hai đứa con kháu khỉnh. Nậm Cha thật sự đã trở nên gắn bó thành quê hương mới.

Có rất nhiều câu chuyện thầy, cô giáo miền xuôi lên “hòa mình” với vùng cao như thế. Bắt đầu từ những bỡ ngỡ, lo lắng đến tình cảm trách nhiệm và rồi là tình yêu, họ đến với dân dựng lên nhiều mái ấm. Một cách rất tự nhiên, bản làng là quê hương thứ hai của họ. Xa rời quê hương, người thân, cha mẹ; vượt qua gian khó về vật chất, thiếu thốn đời sống tinh thần..., bằng nhiệt huyết tuổi trẻ, họ đã vượt lên tất cả. Đó chính là những hy sinh thầm lặng cho sự nghiệp giáo dục vùng cao.

Bài 2: Càng khó bao nhiêu, càng thương trò bấy nhiêu

Lương bao nhiêu là cao? Năm triệu, mười triệu hay mười lăm triệu đồng? Trung bình mỗi hiệu trưởng thâm niên trên 15 năm công tác có mức lương khoảng mười triệu đồng. Ở nhiều vùng, mức thu nhập ấy dù cao nhưng vì chi phí sinh hoạt quá nhiều, thành ra lương cao mà cuộc sống chưa hẳn sung túc.

“Khéo co thì ấm”

Chúng tôi luôn tâm đắc với câu nói của thầy Trần Khánh Tài, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Chiềng Hoa A (xã Chiềng Hoa, huyện Mường La, tỉnh Sơn La): “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Để đến Trường Tiểu học Chiềng Hoa A, từ TP Sơn La, chúng tôi ngồi ô tô đi khoảng 35 phút, rồi xuống ca nô xuôi theo lòng hồ thủy điện sông Đà gần 6km và tiếp tục bắt xe ôm đi thêm 16km nữa. Con đường nằm dọc theo thủy điện Nậm Pia, một bên là núi cao, một bên là vực sâu. Chi phí tính từ bến đò Tạ Bú (nằm trên tỉnh lộ 106 từ TP Sơn La đi huyện Mường La) về đến trường tính sơ sơ một lượt khoảng 50.000 đồng. Tất nhiên thầy cô có thể tiết kiệm tiền xe ôm bằng cách… đi bộ.

Trường Tiểu học Chiềng Hoa A có 26 giáo viên, trong đó chỉ có một người địa phương, số còn lại đến từ miền xuôi, người xa nhất ở tỉnh Thanh Hóa. Chi phí đi lại vô cùng tốn kém. Nhiều người có xe máy nhưng chỉ có thể dùng trong những ngày đẹp trời. Khi trời mưa, xe phải gửi lại bến đò. Liên quan đến xe máy, chúng tôi được biết trung bình mỗi tháng các thầy cô phải chi trên dưới 500.000 đồng để mua xăng dầu, bảo dưỡng. Chúng tôi và thầy Tài làm phép tính đơn giản và thấy rằng chi phí cho những khoản ăn uống, đi lại lên tới khoảng 4 triệu đồng/tháng, gần hết số tiền lương mà các thầy cô tập sự đang được nhận.

 

 Cô, trò Trường Tiểu học Nậm Păm phải học nhờ trong các phòng học được ghép tạm sau trận lũ quét lịch sử đầu tháng 8 vừa qua.
Cô Nguyễn Thị Thúy, sinh năm 1993, quê ở Thạch Thất, Hà Nội đang là giáo viên tập sự của Trường Tiểu học Chiềng Hoa A. Lên nhận công tác tại trường, cô được tính mức lương hệ cao đẳng cộng thêm 70% mức lương đang nhận cho vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn trong vòng 5 năm, sau đó sẽ được tiền % thâm niên đứng lớp. Cộng thêm một số chế độ trợ cấp thu hút giáo viên ở vùng đặc biệt khó khăn, lương của cô Thúy khoảng hơn 5 triệu đồng/tháng. Thêm một vấn đề nữa là lương trả cho giáo viên theo vị trí công tác chứ không theo bằng cấp. Nghĩa là người có bằng đại học dạy tiểu học cũng chỉ nhận được bậc lương trung cấp. Một ví dụ như vậy để thấy lương của giáo viên miền núi, cao hay không?

 

Tổng thể những vấn đề bất cập trong việc chi trả tiền lương của giáo viên nói chung hiện nay đã được các đại biểu Quốc hội đặt ra. Ông Hoàng Đức Minh, Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý cơ sở giáo dục (Bộ GD&ĐT), cho biết: Bộ GD&ĐT đang phối hợp với các ban, bộ, ngành kiến nghị cải tiến, hoàn thiện chế độ lương và chế độ phụ cấp ưu đãi cho nhà giáo theo hướng khắc phục những bất cập hiện có, để vị thế của người giáo viên được đặt đúng chỗ.

Nhân chuyến công tác này, chúng tôi cũng gợi lại vấn đề “cô Trương Thị Lan, giáo viên mầm non ở tỉnh Hà Tĩnh nhận lương hưu 1,3 triệu đồng sau 30 năm công tác” để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhiều giáo viên vùng cao. Câu trả lời nhận được khá lạc quan. Nhiều nhà giáo cho rằng cô Lan thiệt thòi do không có biên chế trong một thời gian dài nên quá trình đóng bảo hiểm xã hội ít, dẫn đến lương ít. Giáo viên vùng cao cơ bản khi đã qua các kỳ thi tuyển của tỉnh thì chỉ mất một năm tập sự, sau đó được xét tuyển biên chế luôn. Vì thế, việc đóng bảo hiểm xã hội sẽ được thực hiện ngay khi vào biên chế, nên lương hưu sẽ dễ chịu hơn.

Tuy nhiên, có thể thấy trong thời điểm hiện tại, dù cộng tất cả chế độ đãi ngộ thì lương của giáo viên vẫn thấp. Và lương thấp nên các thầy cô ở những vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn phải “khéo co” lắm mới đủ chi trả cho những chi phí sinh hoạt.

"Cái khó ló cái khôn"

Trường Tiểu học Chiềng Hoa A nằm bên sườn dốc của núi Kéo Ớt, một ngọn núi thuộc dãy Lọng San, địa hình hẹp và dốc. Mỗi khi mưa lũ, cả trường biến thành một cái hố đựng bùn. Thứ bùn đỏ rất khó dọn dẹp, lau rửa. Nhưng giờ đây, trường đã có diện mạo tương đối khang trang, tất cả nhờ tài xoay xở của thầy hiệu trưởng Trần Khánh Tài.

 

Học sinh Trường Tiểu học Phăng Sô Lin tập đồng diễn chuẩn bị cho Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11. 
Thầy Trần Khánh Tài có thâm niên công tác 18 năm, trong đó có 4 năm là phó hiệu trưởng và 6 năm là hiệu trưởng. Năm 2013, nhân việc thủy điện Nậm Pia bắt đầu được xây dựng, thầy kêu gọi sự giúp đỡ của doanh nghiệp, đổ đất nền cho sân trường. Trong thời gian này, thầy cũng xin được nhiều ngôi nhà cũ của dân để tranh thủ làm được hai dãy nhà gỗ và một dãy nhà vách tôn. Sau trận lũ quét đầu tháng 8 vừa qua, Trường Tiểu học Chiềng Hoa A được Bộ Quốc phòng mà trực tiếp là Bộ CHQS tỉnh Sơn La xây tặng một công trình lớp học kiên cố. Với công trình này, trường sẽ có gần đủ lớp đạt tiêu chuẩn.

Thầy Trần Khánh Tài nói: “Trường chúng tôi có 5 điểm trường, tổng số 371 học sinh. Điểm trường xa nhất là ở bản Lọng Sản, cách đây hơn 8km nên đi dạy thì khó có thể về trong ngày. Hiện tại chúng tôi mới chỉ đưa được 13 em học sinh lớp 3, 4, 5 ở những bản xa nhất về trường trung tâm học bán trú. Nếu có cơ sở vật chất đầy đủ, chúng tôi sẽ đưa thêm nhiều học sinh về hơn”.

Công trình do Bộ Quốc phòng xây tặng sẽ được bàn giao cho trường trước ngày 22-12 năm nay. Bao nhiêu dự định trang hoàng sân vườn, trồng cây, trồng hoa đã được thầy trò nhà trường hoạch định sẵn. Nhìn cảnh các thầy cô giáo, học sinh tranh thủ những phút giải lao giúp đỡ bộ đội xây trường thật vui mắt.

Từ huyện Than Uyên, tỉnh Lào Cai, thầy hiệu trưởng Bùi Duy Nam của Trường PTDTBT THCS Tà Mung cho rằng, khắc phục khó khăn là “ló” ra nhiều cách làm hay. Năm 2007, xã Tà Mung (tách ra từ xã Mường Than, huyện Than Uyên) điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo lên đến hơn 80%, đa phần rơi vào các hộ gia đình đồng bào dân tộc Mông. Trường PTDTBT THCS Tà Mung có 2 điểm trường cách nhau 8km. Năm 2011, thầy Nam được chỉ định làm hiệu trưởng. Ngay từ thời điểm đó thầy chủ trương xóa bỏ điểm trường, vận động học sinh học bán trú.

Bắt đầu từ những bữa cơm ngon có thịt, sau đó là các hoạt động văn hóa, thể thao và cuối cùng là những bài học kỹ năng sống… đến giờ sĩ số học sinh đến trường luôn bảo đảm gần 100%. Cũng cần nói thêm, quỹ đất của trường khá rộng, thầy cô giáo trước là hướng dẫn và sau đó “khoán sản phẩm” tăng gia sản xuất cho học sinh. Vì thế nhiều năm trở lại đây trường tự cung tự cấp được thực phẩm để cải thiện bữa ăn, thậm chí còn thừa để tặng trường bạn là Trường THCS Phúc Than. 

Điều đáng mừng là do tập trung vào một điểm trường nên giáo viên bộ môn không phải đi lại nhiều. Cùng với đó là phong trào tăng gia sản xuất cũng góp phần cải thiện đời sống giáo viên. Năm 2016, có 60% học sinh lớp 9 của trường thi đậu vào trường PTDTNT tỉnh, hoặc được xét đi học nghề. Số còn lại trở về địa phương cũng bắt nhịp tốt với hoạt động lao động sản xuất. Thành công của Trường PTDTBT THCS Tà Mung được Sở GD&ĐT tỉnh Lai Châu đánh giá cao.

Thầy giáo Bùi Duy Nam tâm sự: “Điều quan trọng là phải tin tưởng, gần gũi học sinh cũng như thầy cô giáo để nắm bắt tâm tư tình cảm. Khi tất cả đã đồng lòng quyết tâm “thoát nghèo” thì hoàn cảnh dù khó khăn đến mấy chúng ta cũng sẽ làm được”.

Vì tình yêu nghề, các thầy cô giáo vùng cao đã tự thân vận động, biết thích ứng và biến đổi hoàn cảnh khó khăn của địa phương để xây dựng trường học thành mái ấm cho học sinh. Những điều đó hẳn không chỉ có tâm huyết mà còn cần cả tài năng, trí tuệ mới làm được.

 

Bài 3: Xây thêm những điểm tựa mới cho học trò

Mô hình trường bán trú có rất nhiều điểm lợi và thực tiễn ở Lai Châu đã cho thấy hiệu quả. Trong cuộc làm việc với thầy Đỗ Văn Hán, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) tỉnh Lai Châu, chúng tôi được giải thích rõ hơn về lợi ích của mô hình này, như: Khả năng tiếp thu bài của học sinh được nâng cao rõ rệt; giáo viên có thể tập trung chuyên sâu hơn về chuyên môn; cơ sở vật chất không phải đầu tư dàn trải... Lợi ích đã thấy rõ, nhưng cần tiến hành một cách hợp lý.

Để không còn tình trạng “gần nhà xa ngõ”

Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Phăng Sô Lin nằm cách trung tâm huyện Sìn Hồ (Lai Châu) chừng 2km. Trước đây, nhà trường có 9 điểm trường nằm ở 9 bản, điểm trường xa nhất nằm cách trường trung tâm… 47km-đó là điểm trường ở bản Nậm Lúc. Muốn tới Nậm Lúc, giáo viên phải đi vòng xuống vùng thấp thuộc xã Lùng Thàng rồi lại đi ngược lên vùng cao. Đấy là vào ngày đẹp trời còn đi xe máy được, nếu chỉ cần mây mù, mưa gió là Nậm Lúc sẽ biến thành một ốc đảo biệt lập.

Năm 2012, Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Phăng Sô Lin mới thực hiện mô hình trường bán trú. Cô Hoàng Thị Kim Oanh-Hiệu trưởng nhà trường, cho biết: “Được sự quan tâm của Sở GD&ĐT, đặc biệt là các ban, ngành trong huyện và xã rà soát, giúp đỡ vận động học sinh đến trường, nên những năm qua trường, chúng tôi luôn bảo đảm 100% học sinh trong độ tuổi được đến trường và hưởng lợi ích từ mô hình trường bán trú. Đời sống của giáo viên cũng ngày một nâng lên, các thầy cô đều yên tâm công tác”.

Công trình lớp học của Trường Mầm non Nùng Tạo (xã Huổi Mí, huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên) do Chi đoàn cơ sở Báo Quân đội nhân dân phối hợp với Công ty TNHH thiết bị y tế Minh Tâm trao tặng. 

Cô và trò Trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học Phăng Sô Lin (Sìn Hồ, Lai Châu) tập tiết mục múa quạt. 

Chúng tôi gặp thầy Chẻo A Lìn, đã có 10 năm gắn bó tại điểm trường Nậm Lúc. Thầy cho biết, khó khăn của điểm trường biểu hiện ở nhiều mặt, như: Thiếu điện, thiếu nước, thiếu thông tin liên lạc, thiên nhiên khắc nghiệt không thể tăng gia sản xuất... Chẻo A Lìn là người dân tộc Dao ở xã Phăng Sô Lin từ nhỏ nhưng khi nhận công tác tại điểm trường Nậm Lúc cũng có lúc tâm tư. Thầy tâm sự: “Khó khăn lớn nhất là thiếu nước. Nước ăn còn chưa đủ nói gì đến chuyện tắm giặt. Là giáo viên nam nhưng nhiều lúc tôi không thể chịu nổi cảnh “nhịn” tắm giặt đến cả tháng trời. Chưa nói đến việc chế độ đãi ngộ ở những điểm bản cũng chẳng khác gì so với trường trung tâm, vì cùng địa bàn xã... Nghe vậy, chúng tôi mường tượng, nếu đưa các cô giáo lên cắm bản thì họ sẽ phải chịu đựng gian khổ đến mức nào.

Thầy Đỗ Văn Hán được coi là người kiến tạo và thực hành chủ trương trường bán trú, đưa học trò từ bản xuống trường trung tâm. Từ năm 2010, Lai Châu đã thí điểm và thực hành một cách hợp lý việc cho học sinh ăn, ở bán trú tại trường. Thầy Hán nói: “Trước đây, tôi từng nghe chuyện vì trời lạnh mà giáo viên còn nằm trong chăn đọc bài cho học sinh chép. Dạy như thế thì chất lượng làm sao khá được và cũng làm giảm hình ảnh người thầy. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, tình hình của một số điểm trường xa rất gian khó, thiên nhiên, thời tiết rất khắc nghiệt. Nếu theo quy định của Bộ GD&ĐT là dưới 10 độ C học sinh tiểu học không phải đến trường thì nhiều điểm trường ở trên này nghỉ triền miên vào mùa đông. Vậy nên tôi ủng hộ mô hình học sinh tập trung bán trú tại trường và trường thì phải ở trung tâm”.

Câu chuyện “gần nhà xa ngõ”, chế độ trợ cấp không có gì đặc biệt, thực tế là “nỗi e ngại” của nhiều giáo viên vùng cao. Đến bây giờ, nhiều trường phải thực hiện chế độ “trực gác” theo vòng. Chỉ ưu tiên những giáo viên lớn tuổi, hoặc đang mang thai, còn tất cả phải luân phiên cắm bản. Thực tế cũng có trường hợp giáo viên “chạy chọt” để không phải đi điểm trường. Với việc thực hiện mô hình bán trú, mỗi học sinh được Nhà nước hỗ trợ 520.000 đồng cộng thêm 15kg gạo ăn hằng tháng, nên không ít trường dù không đủ điều kiện cũng đã “vượt rào” một cách tự phát, chờ Nhà nước công nhận mô hình bán trú sau. Cứ đưa học sinh về nuôi bán trú, thầy cô đóng góp để nuôi học sinh. Vậy là đồng lương ít ỏi lại phải thêm một phần san sẻ, nhưng như vậy còn đỡ vất vả hơn việc đi “cắm bản”.

Trường bán trú-điểm sáng văn hóa

Vùng miền núi Tây Bắc là vùng có nhiều hoạt động văn hóa gắn với phong tục tập quán, lễ, Tết của đồng bào dân tộc thiểu số. Bà con thường ăn Tết dài. Học sinh cũng vậy. Thế nhưng tình trạng học sinh vắng mặt sau những dịp lễ, Tết gần đây giảm hẳn. Thậm chí, không ít em thích ở lại trường vui Tết cùng các bạn. Trong năm qua, cô giáo Tẩn U Mẩy, Trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS Nậm Cha (Sìn Hồ, Lai Châu) tổ chức được nhiều hoạt động thể thao, văn nghệ để “giữ chân” các em ở lại trường. Những hoạt động này gồm: Các trò chơi dân gian, thi gói bánh, nấu bánh và rất nhiều tiết mục văn nghệ... Thầy, cô kể rằng, vào những dịp lễ, Tết của đồng bào, cả trường rộn lên tiếng hát ca, chỗ thì gói bánh, chỗ chơi đẩy gậy. Rất vui.

Học sinh Trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS Tà Mung (Than Uyên, Lai Châu) mấy năm qua được khoán ruộng tăng gia, cấp cá giống, gà giống… Các em được học cách chăn nuôi, vào những dịp lễ cũng là dịp thu hoạch thành quả lao động. Ngoài ra, trong ngày thường, các hoạt động thể thao, văn nghệ cũng được duy trì đều đặn, thu hút đông đảo học sinh tham gia. Bên cạnh đó, các hoạt động bổ túc hướng nghiệp cũng được thầy cô trong ban giám hiệu nhà trường thường xuyên chăm lo. Có thể nói, một phần thành tích học tập tốt của trường có được là nhờ phong trào thể thao, văn nghệ, các bài học hướng nghiệp, giáo dục kỹ năng sống đem lại.

Thầy Đỗ Văn Hán, người có 36 năm kinh nghiệm gắn bó với ngành giáo dục vùng cao, nói rằng: “Giáo viên giỏi trên vùng núi này phải giỏi rất nhiều việc. Giỏi chuyên môn chưa đủ, còn phải giỏi tiếng dân tộc, hiểu biết phong tục, tập quán và chia sẻ, truyền đạt kinh nghiệm làm ăn. Phương pháp giảng dạy cũng phải giỏi “tùy biến” cho phù hợp với tình hình đặc điểm văn hóa, phong tục của địa phương”.

Những điều đó có thể hình dung như thế này: Thiếu niên vùng cao trưởng thành khá sớm, trước đây ở tuổi 15 nhiều em đã lấy vợ, lấy chồng, làm chủ cơ nghiệp. Để chuẩn bị cho các em, thầy cô giáo phải đưa những kiến thức canh tác, chăn nuôi vào những giờ ngoại khóa để các em “thấm” dần những kỹ năng đó. Ngoài ra, kỹ năng sống như vệ sinh, giặt giũ, gấp chăn màn, giáo dục giới tính cũng là một nội dung quan trọng mà giờ ngoại khóa của các trường bậc THCS đều có.

Ở những trường chúng tôi đã qua trong chuyến công tác này và cả nhiều chuyến công tác trước, phương châm giáo dục học sinh trở thành người có ích đã trở nên rất phổ biến. Ví dụ, ở Trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS Tà Mung, mỗi học sinh được chia một luống rau và được khoán sản phẩm. Trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS Nậm Cha, mặc dù diện tích vườn khá hẹp nhưng các thầy cô cũng cố gắng tận dụng những rẻo đất quanh trường để dạy các em cách canh tác, chăn nuôi. Ở các trường tiểu học, các em cũng được thầy cô dạy từ những việc như: Thổi cơm, vo gạo, gấp chăn màn, tắm giặt... Qua đó mới thấy, muốn các em học sinh ở vùng cao trưởng thành, khôn lớn, nhất thiết phải được uốn nắn từ rất nhỏ, rất kỳ công và chỉ có các trường thực hiện mô hình bán trú mới làm được.

Khép lại hành trình về với thầy và trò các trường vùng cao Tây Bắc, chúng tôi nhớ mãi những ánh mắt, nụ cười của các em học sinh, các thầy cô giáo. Trên những rẻo đất này, các thầy cô giáo phần nhiều thuộc thế hệ 8X, 9X đang nâng niu, chắp cánh những giấc mơ bay cao, bay xa cho các em học sinh. Rồi đây, chính các em sẽ có cơ hội tiếp nối sự nghiệp đó khi mỗi người đang nỗ lực học tập vươn lên thành những công dân có ích cho cộng đồng, cho Tổ quốc.

 

 Bài và ảnh: NAM THẮNG - ĐÔNG HÀ - DUY VĂN/ Báo QĐND

Nguồn:hoinhabaovietnam.vn

Đánh giá của bạn về bài viết

Tổng số: 0 Trung bình: NaN
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC TRUNG ƯƠNG HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM NHIỆM KỲ III (2022 - 2027)HỘI NGHỊ, GIAO LƯU BAN LÃNH ĐẠO TW HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM VỚI CÁC ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC VÀ BAN VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP THÀNH HỘI NHÂN LỰC - NHÂN TÀI HÀ NỘI
VIETNET-ICTYVS VietnamViện Nghiên cứu phát triển Lãnh đạo chiến lược Viện Nghiên cứu chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranhViện Khoa học đào tạo phát triển nhân lựcTrung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữTrung tâm Giáo dục và phát triển