Bà Dominique Altner cũng là tư vấn trưởng Dự án của Quỹ Đối tác Giáo dục Toàn cầu hỗ trợ Bộ GD&ĐT xây dựng chiến lược phát triển chiến lược giáo dục Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045,
Bộ GD&ĐT thể hiện rõ vai trò trung tâm
- Theo bà, 5 năm vừa qua, giáo dục Việt Nam có những thành quả nổi bật nào?
- 5 năm qua có nhiều thay đổi diễn ra. Việt Nam đã chú trọng đến các vấn đề xã hội liên quan đến giáo dục, đặc biệt là việc mở rộng hệ thống ở bậc mầm non và các bậc học cao hơn, chẳng hạn như đặt mục tiêu phổ cập giáo dục các cấp như mầm non và THCS.
Các bạn đã tích cực phối hợp với tổ chức xã hội quốc tế như OECD, để hiện thực hoá những mục tiêu này, điều mà nhiều nước chưa thực sự chú trọng cho tới một vài năm gần đây. Nếu nhìn vào số lượng và tỉ lệ trẻ ở Việt Nam không đến trường trong độ tuổi đi học, chúng ta sẽ thấy con số rất nhỏ. Đây là bước tiến vượt bậc so với nhiều nước trên thế giới, theo quan sát của tôi.
Tuy nhiên, điều làm tôi ấn tượng hơn cả là hệ thống giáo dục Việt Nam không chỉ có sự mở rộng về số lượng mà còn cho thấy đi lên về chất lượng. Các bạn đang triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới, đi kèm với đó là những đổi mới căn bản trong phương pháp đánh giá học sinh, phương pháp và tài liệu giảng dạy và đặc biệt là thay đổi trong tiêu chí đánh giá giáo viên. Tất cả những nỗ lực này thể hiện quyết tâm cao và cam kết cải thiện chất lượng giáo dục của Việt Nam.
- Vậy những nguyên nhân nào là động lực giúp tạo nên thay đổi và thành tựu này của Việt Nam, thưa bà?
- Đó là sự kết hợp giữa quá trình nỗ lực hoàn thiện mô hình và cách tiếp cận riêng của Việt Nam. Cùng với đó là sự mở cửa hội nhập sâu rộng, tiếp thu và vận dụng linh hoạt kinh nghiệm quốc tế.
Khác với các nước OECD có hàng thế kỉ để phát triển và hoàn thiện hệ thống, trước khi xã hội chứng kiến những thay đổi to lớn từ khoa học kĩ thuật, Việt Nam cùng lúc phải đối mặt với nhu cầu mở rộng hệ thống và nâng cao chất lượng đào tạo đến từ tiêu chuẩn của thị trường lao động thay đổi hàng ngày.
Số liệu về sự gia tăng của các trung tâm tin học và ngoại ngữ trong vài năm trở lại đây là minh chứng rõ rệt cho sự linh hoạt, khuyến khích và huy động vai trò của khối ngoài Nhà nước đóng góp vào hệ thống giáo dục để phục vụ mục tiêu chung của Chính phủ Việt Nam.
Ở đây, tôi muốn nói đến vai trò trung tâm thuộc về Bộ GD&ĐT trong việc nỗ lực thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, đặc biệt là chất lượng giáo dục bậc THCS trong 10 năm qua, từ đó nâng cấp về hệ thống và mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục cho các nhóm khác nhau trong toàn xã hội, nhất là cơ hội học sau THCS và sau phổ thông.
Giáo dục Việt Nam đang phát triển đúng hướng
- Nói đến nâng cao chất lượng giáo dục, lực lượng đóng vai trò nòng cốt là đội ngũ giáo viên. Đặc biệt khi triển khai chương trình mới theo định hướng tiếp cận phát triển năng lực, Việt Nam được cho là sẽ đối mặt với sự thiếu hụt giáo viên cả về số lượng và chất lượng. Quan điểm của bà về vấn đề này?
- Nói về quy chuẩn dành cho giáo viên, nếu nhìn lại 15 năm trước ở bậc mầm non, chúng ta vẫn còn nhiều giáo viên không đạt chuẩn về bằng cấp và trình độ đào tạo. Tuy nhiên, hiện nay có thể thấy quy định về chuẩn đội ngũ với bậc học nền móng này, cũng như tất cả bậc khác, đã được nâng lên rõ rệt. Thêm vào đó, quá trình đô thị hoá và sự gia tăng chú trọng vào các ngành nghề dịch vụ và công nghiệp của nền kinh tế cũng khiến ngành Giáo dục phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt giáo viên như là hệ quả tất yếu.
Ở tầm nhìn dài hạn trong vòng vài chục năm nữa khi Việt Nam gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình cao, tốc độ gia tăng dân số sẽ sụt giảm. Điều này có nghĩa số học sinh ở các bậc học thấp cũng sẽ giảm so với hiện nay. Bên cạnh đó, vấn đề di cư và đô thị hoá cũng khiến sự phân bổ giáo viên không đồng đều giữa các vùng kinh tế. Có nơi sẽ thiếu hụt giáo viên so với số học sinh (như vùng ngoại ô các đô thị lớn), nhưng có nơi sẽ đối mặt với tình trạng thiếu học sinh so với số giáo viên (các vùng sâu, vùng xa và kinh tế khó khăn).
Có lẽ phương án hợp lí hơn về dài hạn để khắc phục những vấn đề có thể lường trước được là tập trung phát triển hạ tầng khoa học kĩ thuật và thúc đẩy giáo dục trực tuyến. Cách làm này vừa giảm thiểu áp lực lên số lượng giáo viên, vừa giúp gia tăng cơ hội tiếp cận giáo dục và cá nhân hoá việc học cho phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của từng đối tượng người học.
- Trong giai đoạn tới, theo bà, ngành Giáo dục cần nhận được sự đầu tư cao hơn nữa để đạt được các mục tiêu đề ra hay không?
- Theo tôi được biết, mặc dù dịch bệnh Covid-19 làm suy giảm kinh tế toàn cầu nhưng riêng trường hợp Việt Nam vẫn ghi nhận tăng trưởng dương năm vừa qua và giữ vững mức ổn định chung. Như vậy, nếu giữ nguyên tỉ trọng chi cho giáo dục như hiện nay, tổng mức đầu tư cho ngành Giáo dục vẫn sẽ gia tăng qua từng năm.
Điều tôi quan tâm hơn là làm sao quản lí được nguồn tài nguyên để phục vụ cho những thay đổi to lớn sắp tới, về nâng cao chất lượng đào tạo, chuẩn giáo viên; cải tiến cách thức dạy và học, phát triển hệ thống tài liệu giáo dục và bảo đảm liên thông chuyển tiếp giữa các bậc học, từ đó thúc đẩy cơ hội tiếp cận hệ thống giáo dục ở mọi bậc học.
Như vậy, cũng có nghĩa là thách thức thực sự nằm ở vấn đề quản lí và phân bổ nguồn đầu tư, hơn là tổng mức đầu tư.
- Dựa trên những số liệu và thông tin nắm được trong quá trình xây dựng báo cáo thực trạng giáo dục Việt Nam thời gian qua, bà có những khuyến nghị nào cho giáo dục Việt Nam trong giai đoạn 5 -10 năm tới?
- Như tôi đã đề cập ở trên, Việt Nam đã và đang xác định rất chuẩn xác các khía cạnh cần tập trung chú trọng và đang trên đà phát triển đúng hướng. Điển hình là mục tiêu mở rộng hệ thống và thúc đẩy tiếp cận giáo dục THCS, các bạn đang làm rất tốt.
Có lẽ trong giai đoạn tới chúng ta nên nhấn mạnh hơn nữa việc đa dạng hoá các lộ trình tiếp cận giáo dục sau THCS, bên cạnh học THPT, nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở bậc này và sau phổ thông để đáp ứng nhu cầu từ thị trường lao động.
Ngoài ra, việc xây dựng các phương án chuẩn bị cho những thay đổi trong tương lai về chuyển dịch cơ cấu dân số, quốc tế hóa giáo dục và kéo theo sau là vấn nạn chảy máu chất xám tạm thời có lẽ cũng cần được quan tâm. Nhưng đây là vấn đề dài hạn hơn cho quãng thời gian khoảng 10 năm.
- Xin cảm ơn bà!
Bà Dominique Altner là Chuyên gia Chương trình Cao cấp tại Viện Chiến lược giáo dục UNESCO (IIEP). Bà chịu trách nhiệm nghiên cứu chính sách hoạt động và các dự án phát triển năng lực nhằm củng cố các cơ sở đào tạo trong nước và khu vực trong việc lập kế hoạch và quản lý giáo dục. Bà thiết kế và cung cấp khóa đào tạo phát triển chuyên môn ở cấp quốc gia, tập trung vào các phương pháp tiếp cận toàn diện trong phân tích và lập kế hoạch ngành, bao gồm mô hình mô phỏng và phân tích chức năng quản lý giáo dục của các Bộ.