Dự án VP6 Linh Đàm Chung cư VP6 Linh Đàm

Thứ 5, 25/04/2024

Đang duyệt: Trang chủ Ca dao tục ngữ

Ca dao Tục ngữ - Ái quốc

Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say.
Lòng ta như chén rượu đầy,
Lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi !
Câu hò từ thuở xa xôi
Bao năm còn vọng đậm lời nước non.
Đá mòn, nhưng dạ chẳng mòn,
Tình dân nghĩa nước một lòng sắt non.
 
Đầu con, đầu vợ,
Đứa lớn, đứa bé, đứa bế, đứa bồng,
Đứa lên một, đứa lên ba, đứa lên năm, đứa lên bảy.
Tao biểu mày quảy, mày không quảy,
Mày để tao quảy về cái đất Phú Ơn, (Phú Yên).
Nặng nề gánh vác giang sơn,
Đầu con, đầu vợ, cái đất Phú Ơn ta lại về.
Nhìn trông đỉnh núi tứ bề .
Cành mai chớm nở, ta về xứ ta!
 
Đẹp gì súng Mỹ anh mang,
Mà đi đốt phá xóm làng hỡi anh ?
 
Đồn Tây dù chắc, dù dày,
Thuế nộp đủ đầy, đồn ắt phải tan.
 
Đứng ở Hòn Chồng trông sang Hòn Yến,
Lên Tháp Bà, về viếng Sinh Trung
Giang sơn cẩm tú chập chùng,
Đôi ta gắn bó thủy chung một lòng.
 
Đã là cây bạch, cây tùng,
Nắng mưa đâu quản, bão dòng đâu sờn.
Đã rằng vì nước vì non,
Nước nhà còn giặc, ta còn ra đi.
 
Đêm nay trăng sáng như gương
Ngoài đồng giọng hát, trong mương tiếng cười.
Hò lơ giọng hát càng tươi.
Nước tung trắng xóa, người người tát lên.
Hò lơ, ta kéo càng bền,
Cất cao điệu hát, nước lên mương tràn.
 
Ở nhà cơm hẩm, muối rang,
Bữa ăn có thiếp có chàng vẫn vui.
Con thơ nó khóc ngùi ngùi thảm chưa ?
Anh ra đi trống đánh cờ đưa,
Con thơ, vợ dại nói chưa hết lời.
 
Đôi ta ra giữa chiến trường,
Chung phần chiến đấu, giữ gìn tự do.
 
Ớ bạn mình ơi !
Á, Âu nay gió bụi tung trời
Sổ lồng tháo cũi đến thời rồi đây.
Tay bắt tay, chung lòng chung sức
Quyết diệt thù cứu quốc bạn ơi !
Lòng em khôn tỏ hết lời
Kìa gương phấn dũng rạng ngời nước non.
 
Anh đi em cũng xin đi,
Anh đi vệ quốc, em thì cứu thương.
 
Anh đi lưu thú Bắc thành,
Để em khô héo như nhành từ bi
 
Anh mà đi với thằng Tây,
Em đành phải dứt hết dây nghĩa tình.
 
Anh ra đi mặt biển chân' trời '
Biết rồi có đặng sống đời cùng nhau!
 
Bể Đông có lúc vơi đầy
Mối thù mất nước (đế quốc) có ngày nào vơi!
 
Bây giờ xâu nặng thuế cao,
Thương nhau thì hãy khoan trao ân tình.
 
Biển Đông có lúc vơi đầy,
Mối thù đế quốc biết ngày nào quên.
Cá bống kho với lá gừng,
Bà con mình đó, xin đừng quên nhau !
Càng ngày xâu nặng thuế cao,
Mất mùa nên phải lao đao, nhọc nhằn.
Xóm làng nhẫn chịu cắn răng,
Bán đìa nộp thuế cho bằng lòng quan.
Quan trên ơi hớt quan trên,
Hiếp dân, ăn chặn, chỉ biết tiên mà thôi !
Cây khô xuống nước cũng khô,
Phận nghèo đi tới chỗ mô cho giàu.
Nhớ chăng tình nghĩa trước sau,
Bỏ thây xứ lạ, làm giàu cho ai ?
 
Cây xanh thì lá cũng xanh,
Em giỏi cấy lúa, anh rành trồng bông.
Mai đây lúa chín vàng đông,
Bông nở trắng vườn thi thử ai hơn.
 
Chẳng thơm cũng ngát hoa chanh
Chẳng giỏi cũng gái ngoại thành
Gái mà như thế, khối anh giật mình!
 
Chờ cho đất nước hòa bình,
Phụ mẫu nhà trường thọ, hai đứa mình kết duyên.
 
Cha đời mấy đứa theo Tây,
Mồ ông, mả bố voi dày biết chưa ?
 
Chiều tà bóng ngả nương dâu,
Vin cành bẻ lá em sầu duyên tơ.
Tiếc công tháng đợi năm chờ,
Tưởng chàng có nghĩa, ai ngờ theo Tây.
Vùi thân trong đám bùn lầy
Nước nào rửa sạch nhục này chàng ơi !
 
Chim bay về mỏm Sơn Trà,
Chàng đi lính mộ xa đà quá xa !
Sự này bởi tại Lang Sa
Cho nên đũa ngọc mới xa mâm vàng..
 
Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng là vận lên nguồn đốt than.
Đốt than cháy rổ, cháy sàng
Chiều về xuống biển đào hang bắt còng
 
Cô ơi gian khổ chớ nề ,
Bình dân (l) đã mở, sao không hề tham gia ?
 
Có bột mới gột nên hồ,
Có gian khổ mới có cơ đồ vẻ vang.
 
Cô kia má đỏ hồng hồng,
Cô không biết chữ nên chồng cô chê.
 
Con ơi nhớ lấy câu này:
Cướp đêm là giấc, cướp ngày là quan.
 
Con ơi, con nín mẹ ru :
Cha con còn ở biên khu chưa về.
Con ơi đừng khóc ủ ê
Đợi cha con về chung hưởng tự do.
 
Con ơi, giữ trọn lời thề
Tự do, Độc lập, không nề hy sinh !
 
Con chim xanh ăn quanh bãi cát,
Thiếp nạp cho chàng mỗi năm ba đồng, sáu giác công ngân
Chàng ơi ! ngồi lại thiếp phân :
Chàng nhịn ăn, thiếp nhịn mặc, đóng công ngân cho chàng.
Nạp rồi lòng dạ chưa an,
Lại nghe mõ đánh ngoài làng kêu xâu
 
Con cò lặn lội bờ sông
Mẹ đi tưới nước cho bông ra đài.
Trông trời, trông đất, đông mây,
Trông cho lúa chín, hột sây nặng nhành,
Trông cho rau muống mau xanh,
Để em cắt nấu bát canh mặn mà,
Mát lòng sau bữa rau cà,
Con ơi mau lớn nước nhà cậy trông.
 
Con ngựa tía ăn quanh Đèo Cả,
Bóng trăng rằm sắp ngả về đông,
Chẳng thà giục mã về không,
Chớ không thèm cướp vợ tranh chồng người ta.
 
Còn trời, còn nước, còn non,
Còn người mù chữ, ta còn phải lo.
 
Con vua thì ở đất vua,
Ra đi một bước phải mua đất làng,
Đò dọc phải sợ đò ngang,
 
Dân mình như hòn đá trên non
Trời lay không chuyển, gió lòn không xuê.
Nó xúc bên ni, nó đổ bên tê
Phá rào, vượt lối, ta về làng ta.
 
Dù cho cạn nước Thu Bồn
Hải Vân hóa cát, biển đông thành đèo.
Dù cho cay đắng trăm chiều
Cũng không lay được tình keo nghĩa dày.
 
Dù cho... cho đến bao giờ
Lòng đây, dạ đấy vẫn trơ như đồng.
 
Dù em con bế con bồng,
Thi đua yêu nước quyết không lơ là.
 
Em nhìn xuống Đông,
Ròng ròng nước mắt,
Em trông ra Bắc,
Nước mắt đòi cơn.
Ông cha mình gầy dựng giang sơn,
Biết bao nhiêu xương,
Biết bao nhiêu máu,
Bao nhiêu tủi, bao nhiêu hờn mới nên ?
Ơn nghĩa chất chồng
Con cháu sao nở đành quên
Để cho quân Hồ lỗ
Đặt nền đô hộ
Lên đất nước nhà.
Giống nòi lắm nỗi xót xa,
Tính năm nô lệ nay đà tám mươi.
Lên đất nước nhà.
Giống nòi lắm nỗi xót xa,
Tính năm nô lệ nay đà tám mươi.
 
Em về thưa mẹ cùng cha
Anh vào quân đội, mai ra chiến trường.
Anh đi bảo vệ biên cương,
Mai ngày đất nước huy hoàng có nhau.
 
Gái quốc sắc như con sóng lượn
Trai anh hùng như chiếc xuồng be.
 
Già thì già tóc, già râu
Tinh thần cách mạng thì dâu có già.
 
Hải Vân cao ngấ từng mây,
Giặc đi đến đó bỏ thây không về.
 
Hết Hòn Vay đến Hòn Trả,
Hết Hòn Trả, lại đến Hòn Hành.
Tấc dạ cam đành,
Dắt con cùng vợ.
Biết bao giờ trả nợ dương trần ?
Nợ dương trần, tay lần tay vác,
Tay vịn, chân trèo,
Ta về xứ ta!
Biết bao giờ trở lại quê nhà ?
 
Hở môi, răng lạnh ai ơi !
Chính quyền có vững ta thời mới yên,
Đua nhau kẻ gạo, người tiền,
Giúp vùng mới chiếm, giữ miền tự do.
 
Hỡi trời cao đất đày,
Thuế sao nặng thế này !
Làng xóm đành bóp bụng,
Bán đìa nộp thuế Tây
 
Hòn Sương không thấp không cao,
Đã từng là chốn anh hào lập thân.
Kìa ai áo vải cứu dân,
Kìa ai ba thước gươm trần chống Tây
Chuyện đời thành bại, rủi may,
Hòn Sương cây trải, đá xây bao sờn.
 
Khoan khoan chân bước lên voi,
Thương cha nhớ mẹ, quan đòi phải đi.
Kể từ ngày mộ lính đi Tây,
Tiền Tây em không chuộng,
Bạc Tây em không màng.
Anh đi bỏ mẹ ai nuôi,
 
Lấy chi mà trả ái ân,
Lấy chi mà nộp còng ngân cho chàng ?
Phần thì quan bắt đắp đàngl
Đào sông Câu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu.
 
Làm quan phải xét cho dân,
Không tin ngài xuống, ngài mần, ngài coi.
 
Làm trai cho đáng nên trai,
Thanh gươm, yên ngựa, dặm dài lướt xông.
Vẫy vùng nam, bắc, tây, đông,
Lấy thân che chở non sông nước nhà.
 
Loạn từ phủ Chúa loạn ra,
Loạn từ ngã Bảy, ngã Ba loạn về.
Mẹ già ở chốn lều tranh
Đói no không biết, rách lành không hay.
Vậy cho nên tôi mới biểu (bảo) con vợ tôi rằng :
Em ơi I ở đây làm chi cho vua quan, sưu thuế nặng nề
 
Một lòng theo ngọn cờ đào,
Thề cùng bạch quỷ (1) có tao không mày:
Muốn xây Độc lập, Tự do,
Phải góp đảm phụ (2) phải lo quốc phòng.
Giàu góp của, khó góp công,
Máu xương không tiếc, năm đồng (3) tiếc chi!
 
Nước sông Hàn đời mô cho hết mặn,
Rừng Sơn Trà ai đốn cho hết cây,
Lời nguyền anh đó, em đây,
Anh đừng đi lính cho Tây em chờ
Ô Loan nước lặng như tờ,
Thương người chiến sĩ dựng cờ Cần vương
Trải bao gối đất nằm sương,
Một lòng vì nước nêu gương anh hùng.
 
Nằm thời lấy đất làm giương,
Lấy trời làm chiếu, lấy sương làm màn.
Xâu làng bắt xuống, gọi lên,
Trầy da, tróc thịt cái tên vẫn hoài.
Ăn thì những củ cùng khoai
Bữa mô kiếm được thì vài miếng cơm
 
Ngày xưa đi lính cho Tây,
Ngày nay đi lính phanh thây quân thù.
 
Ngó lên trên sở ông Hoàng
Ngó xuống Ba Hộ tang hoang cửa nhà.
 
Ngó lên, ngó xuống thì vui,
Ngó vùng bị chiếm ngùi ngùi nhớ thương
 
Nhà ai xay lúa ầm ầm,
Cho xin nắm trấu về hầm bà gia.
Bà gia mới chết hôm qua,
Trong chạy, ngoài bội tốn ba mươi đồng.
Không khóc thì tội bụng chồng,
Khóc thì lạt lẽo như đưa hồng mắc mưa.
Ớ chị em ơi !
Cho tôi xin tí nước mắt thừa,
Tôi về tôi khóc tiễn đưa bà mẹ chồng.
Khóc rồi, tôi đổ xuống sông,
Cá mương, cá diếc, cá hồng ních no... !
 
Nhà tôi mượn mái trời che,
Mua tranh lợp hè thiếu trước hụt sau.
 
Nhiễu điêu phủ lấy giá gương,
Giúp vùng bị chiếm là thương giống nòi.
 
Nuôi quân ta nộp lúa vàng,
Quân no đánh thắng, giết ngàn giặc Tây.
 
Qui Nhơn có biển có cầu,
Có phố chú Chệt, có lầu ông Tây.
Thông ngôn, ký lục lắm thầy,
Chân thì giày ống, tay thì ba toong,
Vợ thì đánh phấn thoa son,
Nước non còn mất, mất còn không hay.
 
Ru con còn ngủ đi thôi,
Mẹ còn đi học kiếm đôi ba vần
Muốn tròn bổn phận công dân,
Mà không biết chữ trăm phần nhuốc nhơ.
 
Sông Trà Khúc, ai mà tát cạn,
Rừng Trà Bồng, ai đẵn cho hết cây ?
 
Rạ đồng Chiêm có liềm thì cắt
Rạ đồng mùa có măt thì coi
Được mùa chớ phụ ngô khoai
Đến năm Thân Dậu lấy ai bạn cùng
 
Ru hời, ru hỡi là ru
Cha con còn ở chiến khu chưa về.
Con ơi ! Nhớ trọn lời thề
Tự do, Độc lập, không nề hy sinh.
 
Sông Bàn Thạch quanh co uốn khúc,
Núi Đá Bia cao vút từng mây.
Non kia, nước nọ còn đây,
Mà người non nước ngày nay phương nào ?
 
Sông Nha Trang cát vàng, nước lục,
Thảnh thơi con cá đục lội dọc lội ngang.
Đã nguyên cùng nhau hai chữ đá vàng,
Quí chi tách cà phê đen, ly sữa bò trắng
Anh nở phụ phàng nước non.
 
Tấc đất tấc vàng,
Một góc giang san,
Một dòng máu đỏ.
Quyết tâm không bỏ
Một mảnh đất hoang,
Trồng bắp, trồng lang,
Tăng nguồn lương thực.
 
Từ ngày "Bảo hộ" đảo lai,
Thuế thân đồng mốt sưu sai bốn ngày.
 
Từ ngày Tự Đức lên ngôi,
Cơm chẳng đầy nồi, trẻ khóc như ri.
Bao giờ Tự Đức chết đi,
Thiên hạ bình thì mới dễ làm ăn.
 
Tai nghe súng nổ đì đùng
Tàu Tây đã lại Vũng Thùng hôm qua.
 
Tai nghe súng nổ cửa Hàn,
Giận Tây không giận, giận chàng Lưu Cơ.
 
Tai nghe trống đánh trên lâu,
Tay cầm tràng hạt ngâm câu thiên đàng.
Phen ni bỏ họ, bỏ hàng,
Theo cha với cố nhẹ nhàng tấm thân !
 
Tây bang, đi lính mộ khó về,
Ngày xưa em có nói, anh chẳng hề chịu nghe.
 
Thơm Vạn Giã ngọt đà quá ngọt,
Mía Phú Ân cái đọt cũng ngon
Hởi người chưa vợ chưa con
Vào đây chung gánh nước non với mình.
Quản bao lên thác xuống ghềnh,
Mía ngon, thơm ngọt đượm tình quê hương.
 
Thấy em cuốc cuốc, cào cào,
Dừng chân anh hỏi: Được bao nhiêu hầm ?
Mồ hôi vai áo ướt đầm,
Thương em sức yếu đào hầm, cắm chông.
 
Thà ăn rau má, rau lang
Hơn theo Bá Cừ thác oan uổng đời.
 
Thà rằng uống nước hố bom,
Còn hơn theo giặc, lưng khom, chân quỳ
 
Tham chi đồng bạc của Tây
Mà đi lính mộ bỏ bầy con thơ.
 
Tháp kia còn đứng đủ đôi
Cầu kia đủ cặp huống chi tôi với mình.
 
Tháp trải nắng sương, cau nương sắt đá,
Dẫu người thiên hạ tiếng ngả lời nghiêng.
Cao thâm đã chứng lòng nguyền,
Còn cầu, còn tháp, còn duyên đôi đứa mình.
Non sông nặng gánh chung tình.
 
Trăng rằm mây phủ còn lu,
Tấm gương chị Lý nghìn thu sáng ngời.
 
Trăng rằm sáng cả đồng xanh
Có chồng nhập ngũ (bộ đội) duyên lành đẹp sao.
 
Tiếng đồn anh hay chữ,
Lại đây em hỏi thử
Đôi câu lịch sử Khánh Hòa :
Từ ngày Tây cướp nước ta,
Những ông nào dựng cờ khởi nghĩa
Anh hãy nói ra cho em tường.
- Nghe lời em hỏi mà thương,
Thương người nghĩa liệt tơ vương vấn lòng.
Vì thù non sông,
Họ thề không đội trời chung với giặc.
Từ Nam chí Bắc,
Thiếu chi gan sắt đá đồng.
Ở Khánh Hòa thì có ba ông :
Ông Trần Đường giữ đèo Dốc Thị,
Ông Trịnh Phong trấn nơi Biển Cù
Ông Nguyễn Khanh lo việc quấn nhu,
Ba ông một dạ, nghìn thu danh truyền,
 
Tiếng anh người có học,
Sao anh chẳng nghĩ suy.
Tây bang, anh đi lính làm chi,
Xa cha lìa mẹ, còn gì chữ ân !
Anh ơi ! Nghe lấy lời phân,
Đừng đi lính mộ bỏ thân xứ người.
 
Trời mưa ướt lá trầu tươi,
Ướt cả áo người du kích gác đêm.
 
Trời mưa ướt lá trầu vàng,
Ướt em em chịu, ướt Việt Binh Đoàn em thương.
 
Trời mưa ướt ngọn mía mưng,
Ướt em em chịu, ướt dân quân em buồn.
 
Trời mưa chi khổ rứa trời ,
Ướt người lính chiến không tơi, không nhà.
 
Trời mưa trời gió đùng đùng
Cha con lão Hùng đi gánh phân trâu,
Đem về bón tốt ruộng sâu,
Đêm đêm đạp nước trông mau tới mùa.
Phen này lão quyết thi đua
Cấy hai ang giống, thu thừa trăm ang.
 
Trâu ta ăn cỏ đồng ta,
Đừng ham cỏ tốt ăn qua đồng người.
Hàng ta, ta bận cũng tươi,
Ham chi hàng ngoại, kẻ cười người chê.
 
Trung quân ái quốc
 
Vọng Phu thuộc đãy Núi Bà
Tượng Sơn chất ngất gọi là Hòn ông.
Phải chi đây vợ, đó chồng,
Gánh tương tư đó nặng lòng nước non.
 
Vững vàng tháp cổ ai xây ?
Bên kia Thú Thiện, bên này Dương Long
Nước sông trong,
Dò lòng dâu bể.
Tiếng anh hùng,
Tạc để nghìn thu…
Xa xa con én liệng mù,
Tiềm long hỏi chốn vân du đợi ngày.
 

Đánh giá của bạn về bài viết

Tổng số: 0 Trung bình: NaN
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC TRUNG ƯƠNG HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM NHIỆM KỲ III (2022 - 2027)HỘI NGHỊ, GIAO LƯU BAN LÃNH ĐẠO TW HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM VỚI CÁC ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC VÀ BAN VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP THÀNH HỘI NHÂN LỰC - NHÂN TÀI HÀ NỘI
VIETNET-ICTYVS VietnamViện Nghiên cứu phát triển Lãnh đạo chiến lược Viện Nghiên cứu chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranhViện Khoa học đào tạo phát triển nhân lựcTrung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữTrung tâm Giáo dục và phát triển