Dự án VP6 Linh Đàm Chung cư VP6 Linh Đàm

Thứ 7, 27/04/2024

Đang duyệt: Trang chủ Ca dao tục ngữ

Thăng Long - Hà Nội trong ca dao ngạn ngữ

Trong kho tàng ca dao dân gian Việt Nam có biết bao câu ca nói về Thăng Long - Hà Nội, ca ngợi cảnh đẹp, ca ngợi con người, phản ánh đời sống xã hội nơi kinh thành hoa lệ.
Cùng với sự thăng trầm của lịch sử, mảnh đất này khi là Thủ đô vương quốc, khi bị ngoại xâm chiếm đóng, nhưng rồi lại trở về với nhân dân, lại giữ vai trò trung tâm chính trị - văn hóa - kinh tế của đất nước.
 
Thăng Long Hà Nội đô thành
Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ
Cố đô rồi lại tân đô
Nghìn năm văn vật bây giờ vẫn đây.
 
Hà Nội nằm giữa một vùng sông nước với những ngã ba sông, lại có núi Nùng trấn trung tâm, Ba Vì, Tam Đảo, Sóc Sơn bao phía bắc, tạo nên thế “rồng cuộn hổ ngồi”:
 
Sông Tô một dải lượn vòng
ấy nơi liệt sĩ anh hùng giáng sinh
Sông Hồng một khúc uốn quanh
Văn nhân tài tử lừng danh trong ngoài.
 
Sông Hồng tức Nhị Hà đã trở thành trục giao thông quan trọng ngày ấy:
 
Ai về Hà Nội, ngược nước Hồng Hà
Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui.
 
Con sông Tô Lịch chảy giữa đô thành đem lại cảnh hữu tình cho đất ngàn năm văn vật.
 
Sông Tô nước chảy quanh co
Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya...
 
Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh
Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.
 
Hà Nội còn đẹp bởi:
 
Giữa nơi thành thị có hồ xanh trong
 
Không phải một hồ mà nhiều hồ. Hồ Gươm như lẵng hoa giữa lòng thành phố. Hồ Bảy Mẫu, Văn Hồ, Giảng Võ ở phía nam và tận tây nam. Tây bắc có Hồ Tây, Trúc Bạch nổi tiếng. Mỗi hồ là một danh thắng.
 
Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này
 
 
 
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa màn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
 
Hà Nội không chỉ giàu có về di tích danh lam thắng cảnh về đình, đền, chùa, miếu, về kiến trúc, điêu khắc, về cổ vật... mà còn là một kho tàng vô cùng phong phú về văn hóa - văn nghệ dân gian phi vật thể.
 
Đó là hàng nghìn câu ca dao, ngạn ngữ, làn điệu hát, khúc nhạc, hàng trăm truyện cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại, câu đố, câu đối, truyện cười, hàng trăm trò chơi, thú chơi dân giã cũng như những mỹ tục thuần phong thanh lịch mang sắc thái riêng biệt của Thăng Long - Hà Nội có bề dày nghìn năm lịch sử, tinh hoa của nền văn hiến Việt Nam.
 
Kho tàng ấy rất ít được ghi lại thành văn bản mà chủ yếu được truyền tụng từ đời này sang đời khác.
 
Trong quá trình lưu truyền ấy nó được bổ sung, chỉnh lý, sửa đổi cho phù hợp với từng thời đại và cả với tầng lớp giai cấp mà nó phổ biến. Cho nên văn hóa phi vật thể thường có nhiều lối kể, cách diễn đạt cũng như chi tiết nội dung khác nhau. Tính dị bản ở nó là tất nhiên. Nó còn được dùng lẫn ở nhiều địa phương với công thức “bình chung, rượu riêng”.
 
Thí dụ như trong ca dao miêu tả ngợi ca quê hương làng xóm, nhiều nơi ứng dụng lẫn của nhau chẳng biết ai lấy của ai, câu nào ra đời trước nữa.
 
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Kẻ Bưởi với anh thì về
Làng anh có ruộng tứ bề
Có hồ tắm mát, có nghề quay tơ...
 
Hỡi cô mà thắt bao xanh
Có về Kim Lũ với anh thì về
Kim Lũ có hai cây đề
Cây cao bóng mát gần kề đôi ta.
 
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Kẻ Vẽ với anh tìm về
Kẻ Vẽ có thói có lề
Kẻ Vẽ lại có nhiều nghề đâu hơn.
 
Hỡi cô thắt dải lưng xanh
Có về Phú Diễn với anh thì về
Phú Diễn có cây bồ đề
Có sông tắm mát, có nghề ăn chơi...
 
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải nhãn hai hàng
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
 
Ai về Đào Xá vui thay
Xóm Bắc có chợ, xóm Tây có chùa
Xóm Đông có miếu thò vua
Xóm Nam có bến đò đưa dập dìu...
 
Hoặc niềm tự hào về quê hương luôn đưa mình lên hàng đầu hơn nơi khác:
 
Thứ nhất Hội Gióng, Hội Dâu
Thứ nhì Hội Bưởi, Hội Vó chẳng đâu vui bằng
 
Thứ nhất là Hội Cổ Loa
Thứ nhì Hội Gióng, thứ ba Hội Chèm.
 
Ngôi thứ bị đảo lộn cũng như câu ca xứ Sơn Nam xưa, ở Thanh Trì là “Thứ nhất Thanh Trì, thí nhì Thanh Oai”, nhưng sang đến Thanh Oai lại là “Thứ nhất Thanh Oai, thứ hai Thanh Trì”. Lại còn cách đề cao người để mà nói mình “Nhất vui là hội chùa Thày, Vui thì vui vậy, chẳng tày chùa Mơ”.
 
Hà Nội cũng là quê hương của nhiều lễ hội nổi tiếng thiên hạ:
 
Ai ơi mồng chín tháng tư
Không đi hội Gióng cũng hư mất đời
 
Thánh giếng giỗ Thánh Sóc Sơn
Tháng ba giỗ Tổ Hùng Vương nhớ về
 
Bỏ con bỏ cháu, không bỏ mồng sáu tháng giêng.
Mồng sáu tháng giêng là ngày hội Cổ Loa, hội đền Sóc.
 
Cha đánh mẹ treo cũng không bỏ chùa Keo ngày rằm
 
Mỗi năm vào dịp xuân sang
Em về Triều Khúc xem làng hội xuân...
 
Nhớ ngày hăm ba tháng ba
Dân Trại ta vượt Nhị Hà thăm quê...
Là hội làng Lệ Mật.
 
Ca dao còn phản ánh một Thăng Long - Hà Nội có bề dày lịch sử và quá khứ anh hùng.
 
Lạy trời cho cả gió lên
Cho cờ vua Bình Định bay trên kinh thành
 
Nhong nhong ngựa ông đã về
Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn
 
Đống Đa ghi để lại đây
Bên kia Thanh Miếu, bên này Bộc Am.
 
Long thành bao quản nắng mưa
Cửa Ô Quan Chưởng bây giờ còn đây...
 
Trời cao biển rộng đất dày
Núi Nùng, sông Nhị, chốn này làm ghi.
 
 
Ca dao - ngạn ngữ xưa phản ánh đủ các mặt của xã hội, từ phong tục tập quán, lễ nghi, lối sống, nghề nghiệp, tính cách con người, đến đấu tranh các thói xấu, tệ nạn đương thời, giúp cho các nhà nghiên cứu lịch sử có thêm dữ liệu. Qua bài ca dao “Vui nhất là chợ Đồng Xuân” ta thấy cảnh nhộn nhịp của cái chợ lớn nhất kinh thành. Nào là “Cổng chợ có chi hàng hoa/Có người đổi bạc chạy ra chạy vào/Lại thêm “sực tắc” bán rao...” cho đến “Có người bán lược, bán gương/Có người bán cả hòm rương, tủ quầy/Có người bán dép, bán giày/Có người bán cả ghế mây để ngồi...” và thêm “Lại còn kẻ cắp như rươi/Hở cơ chốc lát, tiền ôi mất rồi”.
 
Muốn biết 36 phố phường xưa phải tìm đến bài ca dao “Rủ nhau chơi khắp Long Thành” có liệt kê các tên phố cũ bắt đầu bằng chữ “Hàng”.
Còn đọc bài ca dao dưới đây ta hiểu được các nghề thủ công của từng làng thuộc vùng đất phía Nam huyện Thanh Trì:
 
Làng Đam bán mắm tôm xanh
Làng Họa đan đó, làng Tranh quay guồng
Đông Phù cắp thúng đi buôn
Đông Trạch bán thịt, làng Om vặn thừng
Tương Trúc thì giỏi buôn sừng
Tự Khoát đan thúng, Vẹt từng làm quang...
 
Đất lề Kẻ Chợ còn là nơi lắm người “khéo tay hay nghề” và những đặc sản quý hiếm: “Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng, thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã”, “Mực cầu Cậy, giấy làng Hồ”, “Sù, Gạ thì giỏi chăn tằm, làng La canh cửi, làng Đẵm bơi thuyền”... và cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây, cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì...
 
Lại còn những làng hoa: Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Tây Hồ, Nghi Tàm, Nhật Tân... làm ngẩn ngơ các du khách đến thăm - trước cảnh đẹp, người đẹp, đã thốt lên:
 
Hỏi người xách nước tưới hoa
Có cho ai được vào ra chốn này
Và ướm lời hò hẹn:
Hỡi cô đội nón ba tầm
Có về Yên Phụ hôm rằm lại sang
Phiên rằm cho chính Yên Quang
Yêu hoa, anh đợi hoa nàng mới mua...
 
Nhưng bên cạnh cái “phồn hoa đệ nhất kinh đô” ấy, ca dao đã không quên một thực tế của dân nghèo Hà Nội dưới thời Pháp thuộc:
 
Văn minh đèn điện sáng lòe
Thông thương kỹ nghệ mọi bề chấn hưng
Chỉ cánh áo ngắn khốn cùng
Làm lụng suốt tháng vẫn không đủ dùng
Bữa cơm, bữa cháo nhạt nhùng
Thôi đành nheo nhóc bọc đùm lấy nhau.
 
Ca dao không né tránh đấu trạnh, sẵn sàng vạch mặt:
 
Ông quan ở huyện Thanh Trì
Miếng mỡ thì lấy, miệng bì thì chê.
 
Cha đời lính Tẩy, lính Tây
Hễ trông thấy gái giở ngay xì xồ...
 
Đốc Hà áo gấm, áo hoa
Mẹ tôi váy đụp đã ba, bốn tầng...
 
Cũng như phê phán hủ tục trong việc cưới:
 
Trèo lên cây gạo cao gao
Lệ cheo làng Nhói độ bao nhiêu tiền?
 
Cheo thời có bẩy quan hai
Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ
Thôi thôi tôi giã om cô
Tiền cheo cũng nặng trăm vồ cũng đau!
 
Người Hà Nội thường tự hào với câu ca dao xưa:
 
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu chưa thanh lịch cũng người Tràng An
 
Hoặc:
 
Chẳng thơm cũng thể hoa mai
Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh
 
Tràng An, Thượng Kính là chỉ Kinh Đô, là Thăng Long, Hà Nội. Trong cuộc sống vận động nếp sống văn minh câu ca đã biến dạng thành:
 
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Chẳng thanh lịch cũng là người Thủ đô.
 
Thay hai tiếng Thủ đô cho rõ ràng, rành mạch hơn.
 
Trong kho tàng ca dao Hà Nội cũng còn bao câu khác hình tượng hóa sự thanh lịch ấy:
 
Đất tốt trồng cây rườm rà
Những người thanh lịch nói ra dịu dàng.
 
Người thanh tiếng nói cũng thanh
Chuông kêu, khẽ gõ bên thành cũng kêu.
 
Kim vàng ai nỡ uốn câu
Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.
 
... Người khôn tiếng nói dịu dàng dễ nghe
 
Vàng thì thử lửa, thử than
Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời...
 
Từ “người thanh” chuyển hóa thành “người khôn”, rồi “người ngoan”, ca dao đã đặt định cho thanh lịch tương ứng và đồng nghĩa với khôn - ngoan rồi.
 
Bên sự ca ngợi chung còn có ca ngợi riêng, ví như với cô gái Trại làng hoa Ngọc Hà:
 
Hoa thơm, thơm lạ thơm lùng
Thơm cành, thơm rễ, người trồng cũng thơm.
Với cô hàng bỏng kẹo làng Lủ:
 
Mình từ làng kẹo mình ra
Nên mình nói ngọt cho ta phải lòng.
 
Và cả đến gánh rau làng Láng cũng phải:
 
... Mượn người lịch sự gánh lên Kinh kỳ.
 
Thanh, lịch đã trở thành truyền thống của người Thăng Long - Hà Nội, một vầng sáng của tâm thức Việt Nam. Nói đến thanh là nói đến sự thanh cao trong tư tưởng, đạo đức, tình cảm, tâm hồn; là nói đến thanh nhã trong nói năng, hành động; là nói đến thanh đạm trong cuộc sống đời thường và thanh liêm với của cải xã hội. Còn lịch, phải chăng là đề cập đến sự lịch lãm - xem nhiều, lịch duyệt - hiểu rộng, lịch thiệp trong giao tiếp và lịch sự trong ứng xử. Nếu như ở vế thanh, con người phải học tập, rèn luyện tu dưỡng mới có, thì ở về lịch lại do sự từng trải và kinh nghiệm sống đúc kết nên. Phải có cảnh thanh và lịch mới đầy đủ trọn vẹn.
Trong thực tế, ta đã từng gặp người thanh mà không lịch, hoặc ngược lại. Thăng Long - Hà Nội là chốn hội tụ tinh hoa đất nước, trong đó có tinh hoa phẩm chất nhân cách và lối sống. Không chỉ hội tụ, mảnh đất trái tim Tổ quốc này còn sàng lọc, kết tinh hương hoa trăm miền để tạo nên bản sắc thanh lịch tiêu biểu cho mình, cho dân tộc mình, để rồi lại tỏa sáng ra trăm miền đất nước.
 
Thanh lịch không phải là thứ trừu tượng, nó được thể hiện rõ rệt trên nhiều mặt của cuộc sống, trong nhiều lĩnh vực: ăn nói, ăn mặc, ăn học, ăn làm, ăn ở, ăn uống cho đến ăn chơi trong lối sống và trong các phong tục, tập quán khác. Nó cũng không phải là thứ bất biến mà có thay đổi điều chỉnh, hoàn thiện, bổ sung, tước bỏ qua từng thời đại lịch sử, qua mỗi chế độ xã hội, để thích ứng với cuộc sống và phần nào phù hợp với luật pháp đương thời.
 
Những câu ca dao - ngạn ngữ nói về cổ tích, truyền thuyết Hà Nội nếu không dựng lại hình tượng của những nhân vật anh hùng chống giặc cứu dân thì cũng là phản ánh công cuộc xây dựng đất nước, thể hiện ý chí bất khuất, lòng yêu chuộng hòa bình, chính nghĩa của nhân dân ta. Truyện ông Gióng lên ba đã xin vua đúc ngựa sắt, roi sắt diệt giặc Ân, lập xong chiến công kỳ vĩ đã không màng danh lợi, phi ngựa sắt về trời.
 
Truyện đức thánh Chèm - người dũng sĩ khổng lồ, đã vang danh ngoài biên ải nước láng giềng, giàu sang phú quí không níu được chân, vẫn trở về nằm xuống ở mảnh đất quê hương. Truyện An Dương Vương xây thành ốc được thần tiên giúp đỡ. Truyện ông Không Lộ dùng phép màu thu đồng đen của nước phương Bắc đem về đúc chuông, chuông gióng lên. Trâu Vàng từ bên đó lồng sang giẫm nát một vùng thành hồ Tây, rồi chạy về phía Đông Nam, dấu chân vạch nên sông Kim Ngưu bây giờ.
Thực và ảo đan xen, tạo màn sương bao phủ lên cảnh vật, làm cho không gian Thăng Long - Hà Nội thêm diệu huyền đậm đà chất tâm linh cổ kính.
 
Kho tàng văn nghệ dân gian ấy là vốn quí cần được sưu tầm, khai thác, bảo vệ và phát huy tác dụng trong công tác giáo dục truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Lấy xưa phục vụ nay là phương châm đúng đắn của việc bảo tồn di sản văn hóa.
 
Vốn văn nghệ dân gian thường nằm trong lớp người cao tuổi. Họ có thể ra đi bất kỳ. Bởi vậy, nhanh chóng tìm hỏi, ghi chép lại là việc làm cấp bách của chúng ta. Hội văn nghệ dân gian Hà Nội nhiều năm qua được sự giúp đỡ của các cơ quan hữu trách đã liên tiếp mở các cuộc điền dã đi sâu tìm hiểu về các làng nghề, phố nghề, về nghệ thuật ẩm thực Hà Nội, về các dòng họ tiêu biểu... qua quá trình khai thác đã tìm ra nhiều câu ca dao, ngạn ngữ, huyền thoại, giai thoại, thần tích... của ngay địa phương nơi mình cư trú. Chỉ có như vậy mới không để mất đi những viên ngọc còn rơi vãi trong dân gian.
 
Qua ca dao cổ Hà Nội ta càng thêm yêu mảnh đất nghìn năm văn vật. Mảnh đất đã nuôi dưỡng tâm hồn ta lớn lên cùng đất nước và Hà Nội cũng lớn lên cùng với dân tộc Việt Nam bất khuất, kiên cường.
 
 

Đánh giá của bạn về bài viết

Tổng số: 0 Trung bình: NaN
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC TRUNG ƯƠNG HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM NHIỆM KỲ III (2022 - 2027)HỘI NGHỊ, GIAO LƯU BAN LÃNH ĐẠO TW HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - NHÂN TÀI VIỆT NAM VỚI CÁC ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC VÀ BAN VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP THÀNH HỘI NHÂN LỰC - NHÂN TÀI HÀ NỘI
VIETNET-ICTYVS VietnamViện Nghiên cứu phát triển Lãnh đạo chiến lược Viện Nghiên cứu chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranhViện Khoa học đào tạo phát triển nhân lựcTrung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữTrung tâm Giáo dục và phát triển